17 April 2020

Bộ phận cai ngục tư tưởng


Vũ Mạnh Hùng


Mạnh Hùng Vũ

Lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương thăm và làm việc tại Ban Tuyên ...

Bộ phận công cụ quan trọng nhất trong bộ máy cai trị của chế độ độc tài đảng trị là bộ phận cai ngục tư tưởng! Bộ phận này có nhiều tên gọi khác nhau qua các thời kỳ (bộ tuyên truyền vận động, ban văn hóa văn nghệ, ban khoa giáo, ban tuyên huấn,ban tư tưởng văn hóa trung ương...) cho đến nay nó có cái tên là ban tuyên giáo trung ương. Bộ phận này nó bao trùm lên toàn bộ mọi thông tin trong xã hội, trước hết là kiểm soát và định hướng cho tất cả các cơ quan báo chí, cơ quan truyền thông ...và làm rất nhiều chuyện.
Mục đích là làm sao để khống chế tư tưởng và ru ngủ được đại đa số người dân. Khi sự thật trong thực tế được phơi bày quá nhiều và khá phổ biến đến mức trơ trẽn như hiện nay, nó sinh ra một bộ phận hộ tống để lung lạc, bóp méo, sào sáo thông tin bưng bịt sự thật để ngăn chặn nhận thức của số đông ...

Mặt khác, do nhận thức của nhiều người khác nhau trong xã hội vì sự nhồi sọ và sự thật bị bưng bịp dẫn tranh cãi có thể dẫn đến mất đoàn kết và chia rẻ ... Không những người dân trong nước và cả những kiều bào ở nước ngoài ... Tóm lại là nó chia rẻ và ngu hóa được số đông ... Còn CA chỉ là công cụ cơ bắp chỉ đâu đánh đó ... Mục đích cuối cùng của nó là làm sao khống chế được tư tưởng, lừa bịp được số đông để duy trì quyền lực cai trị độc tài. Chính vì thế chỉ số ít nhìn nhận ra bộ mặt thật của giới cầm quyền.

Nếu số đông an phận và vẫn hy vọng, không thấy sự cần thiết kiên quyết phải thay đổi thể chế, thì xã hội vẫn còn phải sống trong sự giả dối, CS cứ yên tâm tồn tại. Nếu không có bộ phận này thì CA có thể làm những chuyện vô pháp một cách trắng trợn dã man được không? Nếu không có bộ phận này thi liệu CA có u mê đến mức hầu hết đi làm tay sai cho chế độ phi nhân tính không? ...

Tất nhiên chế độ độc tài đảng trị nó có cả một hệ thống cai trị tư tưởng chằng chịt từ trung ương đến địa phương nhưng đều dưới sự thống lĩnh của ban tuyên giáo trung ương,..trưởng ban là cai ngục trưởng. Nhiều người trả lời CA là bộ phận quan trọng nhất. Nhưng nếu chỉ cần 10 triệu dân thức tỉnh và thấy xã hội cần phải thay đổi thì liệu CA có khống chế nổi không? Chưa nói sự thức tỉnh ngày một đông và ngay cả trong bộ phận CA thức tỉnh thì liệu chế độ độc tài đảng trị có tồn tại được không?

Nên bộ phận cai ngục tư tưởng là quan trọng nhất để duy trì quyền lực và thể chế độc tài. Những kẻ độc tài chỉ có thể ngồi trên đầu cả một dân tộc khi nó không chế được tư tưởng của số đông. Chính vì lẽ đó nên có một nhà xã hội học nào đó mới có câu "Tự do về tư tưởng là linh hồn của tự do".

Vậy muốn có tự do thì phải giải phóng được tư tưởng.






Họ dạy lòng yêu nước như thế nào?


Đỗ Ngà
13 tháng 4 lúc 12:45

Trong hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người

Yêu nước là một khái niệm rất rộng, khó ai định nghĩa rõ ràng về nó được. Tuy nhiên nói về lòng yêu nước thì từ cổ chí kim, bao giờ cũng có 2 xu hướng rõ rệt: xu hướng thứ nhất, yêu nước là chỉ yêu những gì đem lại tốt đẹp cho đất nước cho dân tộc mình mà thôi; thứ nhì, yêu nước là phải yêu tất cả những gì đang hiện hữu trên đất nước của mình. Như vậy thì yêu nước dạng thứ nhất đòi hỏi con người phải có cái đầu để suy xét rồi mới thể hiện lòng yêu nước của mình. Nó hoàn toàn ngược lại với xu hướng thứ nhì.

Ở xu hướng thứ nhất, đôi khi yêu nước lại là phê phán, thậm chí chống đối lại một thể chế chính trị đương thời. Những con người yêu nước dạng này họ không hề nhập nhằng giữa tổ quốc và thể chế chính trị. Họ biết, tổ quốc là mãi mãi còn thể chế chính trị là nhất thời, và thể chế chính trị được lập ra phải để phục vụ cho tổ quốc chứ không phải ngược lại. Như vậy mới có chuyện chỉ có người yêu nước chân chính mới bất chấp hiểm nguy để nói lên cái sai của một chế độ. Và xa hơn nữa, người ta đòi nó phải thay đổi.

Còn ở xu thế thứ nhì, nó hình thành nên những lớp người yêu nước lệch lạc. Loại yêu nước này nó rất dễ chuyển sang dạng yêu nước là yêu thể chế chính trị hay yêu triều đại đương thời, bất kể triều đại đó là tốt hay xấu, là lợi hay hại cho dân tộc và cho đất nước. Những con người theo xu hướng này chính là thành phần ngu trung trong xã hội. Một thể chế chính trị xấu xa, mang lại nhiều tai ương cho đất nước nó luôn nghĩ cách nhân giống loại yêu nước này để phục vụ cho mục đích cai trị của nó. Đến người phản quốc như Lê Chiêu Thống khi tháo chạy thì cũng có một số kẻ ngu trung chạy theo chứ nói gì một triều đại đang nắm quyền cai trị như ĐCS?! Chính vì thế triều đại nào dù thối nát đến đâu cũng đều có thành phần ngu trung, nó tựa như chó với chủ vì đơn giản, chó nó không biết đánh giá chủ của nó là người có đáng cho nó trung thành hay không?!

Để hiểu thế nào là thời đại thì từ xưa đến nay nhiều người đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Ví dụ như nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp François Marie Charles Furier thì chia lịch sử phát triển xã hội loài người thành bốn giai đoạn, mỗi giai đoạn là một thời đại gồm: mông muội, dã man, gia trưởng, văn minh. Nhà nhân chủng học Mỹ là Lewis Henry Morgan lại phân chia thành ba giai đoạn: mông muội, dã man và văn minh. Nhà tương lai học người Mỹ, Alvin Toffler lại dựa vào trình độ phát triển công cụ sản xuất, chia lịch sử phát triển nhân loại thành ba nền văn minh và ông đã chia lịch sử nhân loại ra 3 thời đại là: thời đại văn minh nông nghiệp, thời đại văn minh công nghiệp và thời đại văn minh hậu công nghiệp.

Còn Karl Marx nói về thời đại như thế nào? Ông này thì cho rằng, thời đại là một khái niệm chính trị, là sự khái quát chiến lược ở tầng nấc cao nhất về tiến trình phát triển và xu thế cơ bản của thế giới. Về mặt thời gian, nó chỉ một giai đoạn tương đối dài trong tiến trình phát triển lịch sử thế giới. Về mặt không gian, nó lấy đặc trưng phát triển xã hội của đại đa số quốc gia và khu vực trong phạm vi toàn thế giới làm căn cứ.

Như vậy thì rõ ràng là dù cho mỗi người đưa ra một khái niệm khác nhau, nhưng tựu chung là họ luôn quan niệm rằng, thời đại là cái gì đó mang tính đặc trưng của xã hội loài người ở một giai đoạn lịch sử. Thời đại nó không mang phạm vi quốc gia mà nó mang phạm vi toàn cầu. Ví dụ, người ta hay nói “thời đại internet” hay “thời đại 4.0” đều nói về một xu hướng của thế giới chứ không riêng cho một quốc gia nào cả. Thời đại khác với triều đại, thời đại là nói đến phạm vi toàn cầu và nó không hề bị bó hẹp ở lĩnh vực chính trị, còn triều đại là ám chỉ về một thời nắm quyền của một nhóm chính trị nào đó và nó chỉ bị bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà thôi. Như vậy ĐCS Việt nam dùng từ “Thời đại Hồ Chí Minh” là đúng hay sai? Rõ ràng là sai. Họ đã cố tình đánh tráo khái niệm giữa thời đại và triều đại. Vậy câu hỏi đặt ra là họ cố tình làm thế để làm gì? Để phục vụ mục đích cai trị mà chứ chẳng giúp ích được gì cho sự tiến bộ đất nước cả.

Trong các giáo trình chính trị của CS, họ rất hay dùng câu đại ý rằng: “Thời đại Hồ Chính Minh là thời đại mà lòng yêu nước gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội”. Như vậy ở đây chúng ta thấy rằng, người CS đã cố tình đánh tráo đến 2 khái niệm: thứ nhất, họ đã đánh tráo giữa khái niệm “triều đại” và “thời đại”; thứ nhì là họ cố tình đánh tráo giữa khái niệm “đất nước” và “thể chế chính trị”. Mà như ta biết, để tách biệt những khái niệm như vậy thì đòi hỏi con người phải có một trình độ nhất định. Với học sinh tiểu học, đầu óc còn non nớt không đủ tri thức để làm công cụ phân tích đúng sai thì tất nhiên, qua 12 năm học phổ thông, chúng sẽ bị nhồi sọ và khi lớn lên não của chúng sẽ luôn mặc định như thế. Đánh tráo khái niệm, sau đó nhồi đi nhồi lại hàng chục năm hoặc hơn để não mặc định thứ chân lý được quy đinh riêng của đảng, đó chính là cách mà ĐCS tạo ra những con robot yêu nước theo cách của đảng. Thực tế nền giáo dục XHCN là nền giáo dục nhằm mục đích tạo ra những kẻ ngu trung phục vụ chế độ như thế đấy!

Được biết hiện nay Bộ Gáo Dục và Đào Tạo đang cho lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Thông tư quy định đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học. Dự thảo này được xây dựng trong bối cảnh từ năm học 2020 - 2021, Việt Nam sẽ triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới, bắt đầu từ lớp 1 cấp tiểu học. Theo đó, học sinh sẽ được đánh giá sự hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực theo thứ tự ưu tiên là: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.

Vâng! Những tiêu chí được liệt kê thì không có gì bàn cãi, chỉ có điều là tiêu chí “yêu nước” của Cộng Sản nó không mang ý bản chất yêu nước đúng nghĩa mà lồng bên trong nó là chương trình nhồi sọ có tính toán để nhào nặn ra những thế hệ ngu trung phục vụ cho đảng. Thực ra chương trình đó không hề đổi mới gì cả mà nó chỉ là tìm cách hữu hiệu hơn để không cho trí tuệ học sinh được mở mắt trước thời đại thông tin toàn cầu. Chỉ vậy thôi.



"Đi nữa vòng trái đất khi về mà vẫn còn ngu"!

Mạnh Hùng Vũ

28 tháng 3 lúc 14:51 ·


Đó là tiêu đề câu chuyện của ông bạn già hàng phố. Ông nói, đó câu "chửi" tôi của bố tôi lúc còn sống (cụ mất năm 2004), nó liên quan đến câu chuyện mà tôi chôn chặt trong lòng mấy chục năm nay không biết nói với ai. Nay tôi mới chia sẽ với ông để ông hiểu tôi.

Đại thể câu chuyện như thế này : Sau tám năm được học tập và lao động ở nước ngoài, tôi đã được tới và từng sống ở các nước văn minh. Khi tôi về nước tôi có một nguyện vọng đóng góp sức mình vào việc xây dựng quê hương đất nước, tôi đã từng làm chủ một số công trình xây dựng ... Để đạt được ước mơ làm những việc "ích nước, lợi nhà" của mình, tôi nói với bố tôi con sẽ phấn đấu vào đảng.

Cụ làm ngay một câu : Con hiểu đảng thế nào, đảng là ai, đảng nói và đảng làm ra sao ...nhân dân VN có phải đang là con chuột bạch cho đảng thí nghiệm cái mô hình XHCN không, ...cái mô hình mà những quyền cơ bản của con người, thậm chí cả quyền tự do đi lai, quyền được sống khi trái ý đảng, đảng cũng tước đoạt một cách vô pháp . .. đảng áp đặt cái gì thì phải chịu cái đó. Rồi cụ quay ra nói chuyện về gia đình, cụ nói : Con thấy không từ nhỏ đến lớn con sinh ra và lớn lên trong ngôi nhà này rồi cho đến giờ, con có thấy bố áp đặt chuyện gì nó thuộc quyền của bất cứ ai trong gia đình không. Bố làm nghề thầy giáo, bố có bắt các con phải theo nghề bố không, làm nghề gì là quyền lựa chọn của các con ... : bố vào đảng bố có bắt các con phải theo bố vào đảng không...

Nói xong bố tôi lật chiều lên, lấy một cái hộp mở ra, rồi cầm cái thẻ đảng dơ cho tôi xem và bảo mày tưởng bố không vào đảng à! Tiếp theo bố tôi vốc một vốc huân huy chương các loại trong hộp ra cho tôi xem, nhiều lắm ... cả cái phiếu vải 5m thời bao cấp vẫn còn. Cụ nói, đấy huân huy chương để làm gì, có phiếu đấy nhưng có vải đâu mà mua với cấp. Mày thấy chưa, tìm hiểu về đảng đi, đảng cai trị cái XH này thế nào, hành xử với người dân thế nào ... "đi nửa vòng trái đất về mà vẫn còn ngu, đã từng sống và đi qua các nước văn minh rồi mà vẫn không hiểu được giá trị con người, quyền con người ở đó người ta tôn trọng như thế nào, XH người ta như thế nào, nhà nước hành xử với dân thế nào, người dân được chọn ra người đại biểu, người lãnh đao của người ta như thế nào ...". Ở VN dưới sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối" của một đảng, một mình đảng, một sân một chợ ...làm gì có cơ chế và môi trường sống cho người lương thiện mà phấn với đấu. Việc chỉ ra cho con là trách nhiệm của bố, còn việc lựa chọn là quyền của con, bố không can thiệp.

Ông bạn nói tiếp : Nghe bố tôi nói xong, tôi lặng người đi ngồi im, không dám khóc, không dám cười và sau thời gian công trình của tôi xong thì tôi cũng trắng tay. Tôi trắng tay cũng vì cái chất lương thiện, chất con người trong tôi mà bố tôi để lại, tôi lại càng ngấm những gì bố tôi nói. À hôm cụ mất, tôi lấy cái hộp của cụ nói trên ngoài những gì đã nói, tôi còn thấy tiền cụ để trong đó và đếm được đúng 270 ngđ ông ạ, nghĩ mà xót. Tôi nói thế để ông hiểu tôi, chứ không phải tôi không biết gì đâu. Ngay cả cái đám công cụ vô pháp của đảng nó cứ rình mò ở cầu thang, canh nhà ông là bộ mặt của đảng chứ của ai, tôi hiểu hết. Là người lương thiện, hiểu biết ông thường lên tiếng bênh vực cho công lý, lẽ phải, cho những người dân oan khuất hầu hết dân phố biết và quý mến. Những việc ông làm không có luật pháp nào cấm, nhưng đảng sợ sự thật, sợ lẽ phải và công lý nên phải làm thế!

Tôi nói : thấy câu chuyện của ông hôm nay rất có ý nghĩa, cụ nói nhiều câu rất có giá trị để lại cho con cháu. Thực ra hôm nay tôi cũng không ngờ được nghe câu chuyện này, hiểu thêm về sự hiểu biết của ông. Tôi có ý định viết câu chuyện này để thắp cho cụ một nén hương lòng ông có đồng ý không. Ông bạn : Thế thì tốt quá, nhưng ông đừng viết rõ tên tôi ra nhé! Tôi nhất trí và tôn trọng ý kiến ông.

Mấy hôm vừa rồi bận chưa viết ra được, cảm thấy cái tâm của mình nó cứ như bị vướng víu điều nói mà chưa làm. Hôm nay viết xong thấy mình nhẹ nhỏm hẳn đi. Còn nhiều câu nói rất hay của cụ ông tôi nhớ không hết, chỉ viết được những nội dung cơ bản của câu chuyện, mong ông bạn thông cảm. Đọc được bài viết này và khi thắp hương cho cụ ông, ông nhớ thắp giùm tôi một ném nhé!

Dưới đây là những hình ảnh lính canh nhà tôi có liên quan đến nội dung câu chuyện của bài viết.



11 April 2020

Thất bại không thể thừa nhận của kẻ thắng cuộc


NHỚ THÁNG BA GÃY SÚNG VÀ THÁNG TƯ KẾT THÚC, ĐĂNG BÀI VIẾT CỦA MỘT NGƯỜI SINH RA VÀ LỚN LÊN Ở MIỀN BẮC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, CÓ ÔNG VÀ CHA LÀ CÁN BỘ QUÂN ĐỘI MIỀN BẮC. ĐÂY LÀ MỘT CÁI NHÌN KHÁ KHÁCH QUAN VÀ TRUNG THỰC, HI VỌNG CÁC DLV KHÔNG NHẢY VÀO CHỬI BỚI VÔ VĂN HOÁ Ở ĐÂY.

BÀI VIẾT KHÔNG BIẾT ĐẶT NHAN ĐỀ LÀ GÌ.
Thảo Dân.

Những ngày cuối tháng Tư năm 1975, lớp lớp đoàn quân giải phóng ào ạt tiến về Saigon trong niềm vui còn sống tới ngày thống nhất, trong niềm hạnh phúc vô biên vì lý tưởng chiến đấu họ đã hoàn thành. “Ta đi trong muốn ánh sao vàng, rừng cờ tung bay rộn ràng bao mê say những bước chân dồn về đây. Sài Gòn ơi! Vững tin đã bao năm rồi một ngày vui giải phóng” (Đất nước trọn niềm vui- Hoàng Hà).

Đoàn quân giải phóng đã thắng 2 tên thực dân đế quốc lớn nhất thời đại, chỉ vừa bước chân về tới Saigon, sau men say chiến thắng là bộc lộ những hạn chế, những lạc hậu, đồng thời choáng ngợp về một thế giới sang giàu phồn vinh thật chứ không phải “giả tạo”. Những người lính Bắc Việt trẻ măng hớn hở rạng rỡ lần đầu được ngồi lên chiếc xe gắn máy, hoặc sự ngạc nhiên tột độ khi ngồi xuống một gian hàng bán đủ thứ mặt hàng vô cùng phong phú dọc hè phố Saigon, một phóng viên chiến trường phe cách mạng hào hứng, cầm chiếc máy ảnh được sản xuất từ phương Tây và tò mò bấm thử, một anh cán bộ đầu đội mũ cối, chân đi dép râu, mặc bộ quân phục ka ki Nam Định xanh lá rộng thùng thình phải thắt tới nút cuối cùng của chiếc xanh tuya, hãnh diện đeo chiếc kính mát đen sì và chiếc đồng hồ mới thửa trên cổ tay gầy rộc, vai đeo một chiếc radio mua vội. Rất nhiều tấm hình lưu trữ khoảnh khắc lịch sử này có thể dễ dàng tìm trên mạng.

Họ mau chóng thể hiện những hồn nhiên đến ấu trĩ, những ngơ ngác đến tội nghiệp, lâm vào bao tình huống dở khóc dở cười, trở thành nhân vật trong những câu chuyện hài hước mỉa mai của quân dân cán chính miền Nam. Vô số hài thoại qua những tập ngữ mới lạ, trở thành “ký hiệu” thể hiện sự coi thường, khinh bỉ đi sâu vào trí não người miền Nam. Trên sách báo và câu chuyện đời thường của người miền Nam từng sống thời hậu chiến, nó vẫn được, bị nhắc lại một cách đầy thành kiến, mà hậu sinh nếu không được giải thích thì sẽ không hiểu người ta nói gì.
-Cái nồi ngồi trên cái cốc => Chỉ ly cà phê phin (một vật dụng có từ thời Pháp ở cả 3 miền Nam, Trung và Bắc kỳ chứ không hề xa lạ).
-Cái lọc cà phê => Chiếc áo ngực của phụ nữ miền Nam.
-Đồng hồ không người lái 12 cửa sổ (đồng hồ Seiko thời đó chạy tự động, không lên giây như đồng hồ của Nga, ở mỗi vị trí ghi giờ, thay vì các con số thì đính một viên nhựa khối vuông giả hột xoàn, óng ánh như cửa sổ sáng đèn).
-Tivi, tủ lạnh chạy đầy đường.
-Kem ăn không hết phải đem phơi.
Món hàng khi đó bộ đội yêu thích, hay mua để đem ra Bắc được gói vào 3 từ “Đạp- Đồng- Đài” (Xe đạp- đồng hồ- radio).

Mỗi lần đọc thấy một hài thoại như vậy, tôi có buồn không?
Có. Rất buồn. Và xót xa.
Vì trong đoàn quân Bắc Việt đó, có ông ngoại tôi, một giảng viên chính trị của Học viện Quân sự, sau này đóng ở Đà Lạt, người đã từ chối những ưu đãi dành cho cán bộ Việt cộng lấy từ tài sản của quân dân chế độ Saigon, tới khi về hưu vẫn ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân. Món quà tôi nhớ nhất mỗi lần ông về phép là chiếc mũ nhựa có thể gấp lại cho trong túi đi học, ngoài ra, không có gì cả. Tất cả những gì mà gia đình có được, là do sự đảm đang, tháo vát và cả sự nghiệt ngã với con cái của bà ngoại tôi mà có. (Cần lưu ý, nếu các bạn trẻ tìm hiểu về Học viện quân sự Đà Lạt trên Wikipedia, rất dễ nhầm tưởng rằng Học viện này là của chế độ cọng sản lập ra, vì người viết không rõ là do kiến thức kém hay cố ý nhập nhèm, nhưng trên thực tế, nó được tiếp quản từ chế độ VNCH, nơi này vốn là trường võ bị Quốc gia Đà Lạt, một cơ sở cao cấp đào tạo sĩ quan của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tồn tại 25 năm, từ 1950- 1975, nơi xuất thân của rất nhiều tướng lĩnh tài ba). Ông ngoại cũng chính là người khi nói nói tới gia đình họ Ngô bao giờ cũng bằng một thái độ kính trọng, gọi là Cụ Diệm. Những ngày ông về hưu (ông đã cùng các cậu tôi rời quê sau khi cụ tôi mất), tôi may mắn được sống gần ông, được lục lọi tủ sách lúc nào mở ra cũng sực nức mùi băng phiến. Sách nước ngoài hầu như toàn văn học Xô viết, nhà văn Việt Nam ông yêu thích là Hữu Mai. Ông cho tôi đọc cả những cuốn sách phát hành rồi bị thu hồi như: Nhãn đầu mùa (tôi đã quên tác giả), Ly Thân (Trần Mạnh Hảo), Những Thiên Đường Mù (Dương Thu Hương), khác hẳn với ông bố giáo điều và cả tin của tôi, luôn kiểm soát tất cả những gì tôi đọc và nghĩ, nên Truyện Kiều cũng thuộc vào danh mục sách cấm, tới mức tôi phải láu cá lột bìa cuốn Bất Khuất của Nguyễn Đức Thuận để bọc vào tất cả mọi quyển, mỗi khi bố tôi lảng vảng tới gần, tôi chỉ cần giả vờ lơ đãng gấp sách lại, để hiện lên cái bìa sách Bất Khuất to đùng tôi tỉ mẩn tô vẽ là che mắt được mắt bố. Bố tôi cả tin đến nỗi mỗi khi tôi bướng bỉnh, lại mắng, Mày đọc Bất Khuất cho lắm vào.

Trong đoàn quân đó có bố tôi, một anh bộ đội Trường Sơn suốt từ 1964 đến năm 1976 mới xuất ngũ. Tài sản mang về là mấy bộ kim châm cứu (kỷ vật của cô người yêu cũ ở chiến trường) và bệnh sốt rét kinh niên. Để chữa khỏi bệnh cho bố, gia sản nghèo nàn của nhà tôi sạch bách. Mẹ tôi phải bán đi cả chiếc kiềng bạc của em tôi, bán đi chiếc nón lá Hà Đông được tặng, chưa dám đội lần nào và vô vàn sáng trưa chiều tối lọ mọ đạp xe, đi bộ khắp hang cùng ngõ hẻm của huyện để tìm thuốc và về hì hụi ninh, sắc cho bố uống.

Có chú họ tôi, mà mỗi lần nhắc chú, mẹ tôi đều kể lại câu chuyện đêm trước chú đi B, được về nhà, đã ra ngó từng gốc cây trong vườn, đã chạy khắp các đường làng rồi chạy vào bế tôi, đứa cháu nội đầu tiên của chi (một nhánh trong nội tộc), khi đó mới vài tháng tuổi rồi lại hối hả chạy bộ lên chỗ tập trung. Câu nói của chú tới giờ mẹ tôi vẫn nhắc, Em nhớ nhà, nhớ làng, nhớ cháu lắm chị ơi, nhớ từ nồi nước giải giở đi. (Quê tôi hồi đó thường để một cái nồi đất to ở góc vườn, đi giải vào đó để pha ra tưới rau).
Có một đồng hương của tôi, sau khi giải ngũ về làng, lúc nào cũng ngẩn ngẩn ngơ ngơ, xa lánh mọi người, ai nói gì cũng chỉ khe khẽ cười nhạt, đêm đêm trùm chăn nghe đài BBC, người vợ trẻ đang tuổi khao khát hạnh phúc lứa đôi cặp bồ với hết người này người khác, ông cũng chỉ khe khẽ cười đau khổ. Hễ ai bất bình hộ mà bâng quơ nhắc nhở xa gần, thì ông thở dài, Cả làng, cả nước này bị lừa chứ nói gì một người đàn bà. Kệ người ta.

Bởi thế, tôi trân trọng và thương xót người lính Bắc Việt bằng một cảm xúc máu thịt chân thành. Đằng sau cái ngô nghê ấu trĩ đó, là sự thật đói nghèo của miền Bắc lúc bấy giờ. Những tiện nghi quá đỗi bình thường với dân miền Nam như quẹt gaz, máy casesstte, quạt máy, đồ chơi điện tử…tới những vật dụng của gia đình trung lưu như máy hát đĩa, ti vi, tủ lạnh, xe máy, ô tô…là một thế giới trong mơ, không có thực ở miền Bắc. Sự hợm hĩnh dốt nát của họ là để che đậy mặc cảm tự ti của kẻ chiến thắng biết mình chiến bại, bại vì thua sút đối thủ cả vật chất lẫn tinh thần. Những người có học hành, hiểu biết thì sớm giật mình, bàng hoàng nhận ra mình đã nhầm. Thế nên mới có một Dương Thu Hương ngồi sụp xuống khóc nức nở giữa đường phố Saigon, để bắt đầu giai đoạn nhận thức phản tỉnh triệt để. Có một người lính trong bài thơ Phan Huy: “Tôi còn nhớ sau cái ngày “thống nhất”/ Tôi đã vào một xứ sở thần tiên/ Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền/ Cơm áo no lành con người hạnh phúc…Trước mắt tôi một miền Nam sinh động/ Đất nước con người dân chủ tự do/ Tôi đã khóc ròng, đứng giữa thủ đô…”.
Câu hỏi đặt ra, Nếu bất kỳ ai trong số dân miền Nam mà sống trong lòng miền Bắc, được giáo dục như bao thế hệ người miền Bắc từ 1954 trở về sau này, liệu có khá hơn, hoặc khác hơn họ không? Tôi không dám chắc.

Nói về đói khổ ở miền Bắc những năm tháng đó, thì có lẽ chỉ cần lấy 2 ví dụ. Người phụ nữ tới kỳ kinh nguyệt, nếu không dùng giẻ rách từ quần áo cũ để thấm máu, thì sẽ dùng tro bếp gói vào trong miếng vải cũng từ đồ cũ, đóng làm khố cho qua những ngày khổ sở. Lương thực cũng thiếu đến nỗi, để ghìm khẩu vị lại, có nơi, người dân phải hấp vào nồi cơm một loại lá đắng, đắng không thể ăn thêm bát thứ 2. Câu chuyện thứ nhất, bà tôi kể. câu chuyện thứ 2 từ hồi ức của Lê Minh Hà trong tập Những triền xưa ai đi. Cuộc sống bần hàn như vậy, dễ hiểu rằng, những tiện nghi tối thiểu mang dấu ấn hiện đại không xuất hiện ở xã hội miền Bắc, trong hầu hết gia đình. Ai rất giàu mới có chiếc đài Orionton, mà mấy bác hàng xóm nhà tôi đọc là Ô ri ông tông. Xe đạp thì phải gắn biển số. Đó gần như là những thứ vật chất giá trị nhất. Huống hồ những thứ “xa xỉ” mang tính tiểu tư sản như phin pha cà phê hay áo ngực, quần lót cho phụ nữ.
Về văn hóa giáo dục thì sao?

“ Nhìn qua phương Tây, bên ấy có xu hướng đặc tả lớp trẻ nhỏ và thanh thiếu niên là nạn nhân, những khổ đau mà các em phải nhận lãnh trong chính trị và xung đột quân sự là oan uổng vì trẻ thơ tượng trưng cho những gì thuần khiết và trong trắng. Thế nhưng những diễn ngôn bên phe xã hội chủ nghĩa thời Chiến tranh Lạnh thường biến hình ảnh thanh thiếu niên và thiếu nhi, cũng như nhi đồng “trở thành những chiến binh cách mạng gắn liền với lập trường chính trị của cuộc đấu tranh giai cấp ” (“Making Two Vietnams” by Olga Dror. ‘Việt Nam Nước Chia Hai Đàng’ trang 15 - Le Tung Chau dịch).
Nhận xét đó là xác đáng, với thiếu nhi của tất cả các nước XHCN nói chung và thiếu nhi Bắc Việt nói riêng. Ở đây, xin nhắc riêng về thiếu nhi và người dân Bắc Việt.

Trẻ em từ 6-9 tuổi nằm trong Đội Nhi đồng. Từ 9-15 tuổi trong Đội thiếu niên. Không phải đứa trẻ nào cũng dễ dàng được vào Đội Thiếu niên. Vì thế, bọn trẻ bằng mọi cách phải cố gắng hết sức của mình để được đeo khăn quàng đỏ, dấu hiệu nhận biết những cá nhân có tinh thần phấn đấu triệt để. Là một tổ chức nằm trong hệ thống chính trị nên Đội được giám sát bởi Đoàn Thanh niên (Ban đầu là Đoàn Thanh niên Lao Động, sau đổi thành Đoàn Thanh niên Cộng sản HCM), và Đoàn lại được sự kiểm soát, dẫn dắt sát sao của tổ chức đảng (Ban đầu cũng là đảng Lao động, sau đổi thành Đảng Cộng sản đúng với bản chất). Một người từ ấu thơ đến trưởng thành, một mặt bị giám sát bởi tầng tầng lớp lớp tổ chức, bị chính trị hóa, mặt khác lại phấn đấu trở thành thành viên của nó, coi đó là tiêu chí chứng minh mình ưu tú hơn thành phần còn lại. Đó là cả một hành trình gian khổ, khắc kỷ, loại bỏ tối đa những yếu tố cá nhân, để chỉ còn là một sản phẩm hoàn hảo của định hướng, nghĩ chung một dòng, nói chung một giọng. Cuộc đời trở thành những cuộc thi đua không có điểm dừng. Thi đua “Làng sạch đồng xanh”, thi đua làm “Kế hoạch nhỏ”, “Ngàn việc tốt”, thi đua chào mừng sinh nhật bác "Em yêu bác Hồ Chí Minh", sinh nhật đảng "Ngàn hoa việc tốt dâng Đảng quang vinh", thể hiện tình đoàn kết với miền Nam: "Em sẽ về thăm miền Nam Tổ quốc thành đồng yêu dấu", hoặc bày tỏ tình cảm với các lực lượng vũ trang: "Em yêu anh bộ đội". Bao quát tất cả là phong trào thi đua ‘Thực hiện 5 điều bác Hồ dạy”. Danh hiệu Cháu ngoan Bác Hồ là “chứng chỉ” sát hạch phẩm chất chính trị của các công dân tí hon. Và như thế, khái niệm ngoan, đồng nghĩa với sự vâng lời, tuân phục và sùng tín. Ở các lứa tuổi trưởng thành, vẫn là phong trào thi đua. Thanh niên “Ba sẵn sàng”, “Năm xung phong”, phụ nữ “Ba đảm đang”, “Giỏi việc nước đảm việc nhà”, Trí thức “Ba quyết tâm”, Quân đội “Ba Nhất” “Thi đua Quyết thắng”, Giáo dục “Hai tốt”, Nông nghiệp: “Gió Duyên Hải”, Tiểu thủ công nghiệp: “Gió Đại Phong”… Thi đua trở thành một thứ tiêu chí để đánh giá thứ hạng công dân, buộc họ phải vắt kiệt sức phấn đấu để thể hiện lòng trung thành và nhiệt tình cách mạng.

Chương trình giáo dục các môn xã hội gần như trùng khớp với quan điểm xuất bản văn hóa. Các ấn phẩm thơ ca nhạc họa dành cho thiếu nhi nói riêng và các tầng lớp nhân dân nói chung, cùng nhằm tới những mục tiêu: Giáo dục lòng yêu chế độ đồng nghĩa lòng yêu nước, lòng căm thù giặc Mỹ và tay sai, tinh thần đấu tranh giai cấp và cách mạng triệt để, lòng sùng bái lãnh tụ… Để đạt mục tiêu giáo dục, thậm chí, người ta không ngần ngại ngụy tạo những nhân vật anh hùng như Lê Văn Tám, Nguyễn Văn Bé, cô du kích Nguyễn Thị Kim Lai… Mọi công dân không có khái niệm bi quan nản lòng và mơ hồ dao động, hoặc ít nhất, không được tỏ ra như vậy, nếu không muốn gặp rắc rối, bị bêu riếu, xa lánh, kỳ thị, bị triệt đường học hành, làm ăn, sinh sống, bị dồn vào đường cùng. Trên thực tế, số người bi quan, dao động rất ít, thuộc về những người có học hành, hiểu biết hơn số đông còn lại.
Để đến với người đọc, tất cả sách báo đều được kiểm duyệt qua rất nhiều khâu từ bản thảo tới in ấn, xuất bản. Đường lối và phương châm giáo dục này hằn sâu trong trí não từ trẻ thơ tới khi trưởng thành, định hình nếp tư duy một chiều, định hướng, triệt tiêu phản biện, tin tưởng tuyệt đối vào những gì đã được giáo dục, dạy dỗ, tin vào số đông, bất kỳ ai sống khác, nghĩ khác là bị liệt vào thành phần bất hảo, cần phải giáo dục lại.

Từ đời sống thường nhật tới thông tin, văn hóa đều bị bưng bít. Đồng nghĩa với việc người miền Bắc nói chung và người lính Bắc Việt nói riêng, trở nên tức cười trong mắt những người anh em bên kia vĩ tuyến, những người nếu không phải đều được thụ hưởng cuộc sống văn minh Tây phương, cả về vật chất lẫn tinh thần, thì cũng không tới nỗi xa lạ với nó.

Người miền Bắc thành thực tin rằng đồng bào miền Nam đói khổ ngày đêm bị rên xiết dưới gót giày Mỹ ngụy, thành thực tin rằng, bằng máu xương của mình, sẽ giải phóng đồng bào, những người cùng dòng máu Lạc Hồng khỏi kẻ ngoại bang, sẽ xây dựng một đất nước Việt Nam thống nhất, độc lập tự do.

Vì thế, bao nhiêu lá đơn tình nguyện nhập ngũ viết bằng máu. Bao nhiêu chàng trai còi cọc chưa trổ ria mép đã thủ trong túi quần mấy kg gạch đá vào túi quần để đủ cân nặng ra chiến trường.
Vì thế, bao nhiêu cô gái buộc gọn mái tóc dài, xung phong tới nơi bom đạn, để lại những Rừng Cười con gái đầy ám ảnh, để ngày trở về, trễ muộn, nhan sắc tàn phai, chỉ tuổi tác là dày thêm mãi, tuổi già cô độc không chồng, không con, trên mình mang đủ loại tật bệnh. Bao nhiêu máu xương trải dọc Trường Sơn? Bao nhiêu trai gái độ tuổi yêu đương nằm xuống khi chưa từng có một nụ hôn, chưa từng cầm tay người khác giới?
Vì thế, giấy báo tử bay đầy mái rạ, mẹ vẫn tiễn chồng rồi tới con đi. Có ai mong làm Mẹ Việt Nam anh hùng.

Ngược lại, ở miền Nam, với không khí học thuật cởi mở, đề cao dân tộc tính, đề cao tinh thần dân tộc, giáo dục lòng tự hào về dòng dõi con Lạc cháu Hồng, tình yêu quê hương bản quán, thông qua những bài dạy luân lý nhẹ nhàng, kết hợp hài hòa các nội dung văn hóa dân tộc, văn minh Tây phương và luân lý Khổng Nho, không giáo dục lòng căm thù, không có thần tượng chính trị, được gia đình, nhà trường và xã hội bảo bọc, che chắn “dựng một chốn trú ngụ an toàn giữa hai lằn đạn” để sống hồn nhiên, phát huy tối đa những phẩm chất ưu tú, cống hiến cho Quốc gia và thành nhân, thành danh ở vào khi tuổi đời còn rất trẻ. Họ thành nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, thành sĩ quan, thành lính trận, thành những nhà quản trị quốc gia, đồng thời họ có thể lặn ngụp trong phong trào hippie với triết học hiện sinh thời thượng từ nước Mỹ xâm nhập để đi tìm bản ngã. Đó là nền văn hóa giáo dục Dân tộc- Nhân bản- Khai phóng. Bên cạnh khơi gợi lòng tự hào về bản thân, quê hương, dân tộc, họ còn được thực hành đức tính khiêm nhu, lễ độ. Điều đó càng khiến cho miền Nam nhìn người bộ đội từ rừng tràn xuống như những kẻ đói khổ, quê mùa, dốt nát và hợm hĩnh, và hố sâu ý thức hệ càng lúc càng sâu rộng mãi thêm ra khi “cách mạng” tiếp quản miền Nam, và giam cầm quân dân cán chính VNCH trong những trại cải tạo...

So sánh về văn hóa- giáo dục giữa hai miền như thế, để lý giải phần nào nguyên nhân sự hồn nhiên, ngô nghê và cả tâm thế phức hợp, đan xen giữa thái độ ngạo mạn của bên thắng cuộc lẫn mặc cảm thua kém về văn hóa và vật chất trước kẻ chiến bại.

Tôi không dám hi vọng thế hệ từng đổ máu trong chiến tranh, những người bị ly tán gia đình, mất thân nhân sau 1975, những người phải rời bỏ quê hương xứ sở để tìm đường sống có thể quên đi thù hận. Tôi không dám hi vọng lớp người đi trước có cái nhìn thay đổi về đối phương, cho dù, tôi chứng kiến một số tình bạn đẹp khác chiến tuyến. Nhưng, tôi ao ước rằng, thế hệ tôi, thế hệ con cháu tôi hãy hiểu và nhìn nhau bằng cái nhìn nhân ái. Cả từ hai phía. Dù là con em bên này hay bên kia, thì cùng sống trên dải đất này, từ khi thống nhất, chúng ta đều cùng chung một nền giáo dục, chung một vòm trời. Chúng ta, vô tình hay hữu ý, vẫn được giáo dục để nuôi nấng lòng căm thù. Nhưng lòng căm thù có giúp quốc thái dân an không? Không. Có thay đổi được xã hội không? Không. Lịch sử không thể nào thay đổi, nhưng tương lai có thể thay đổi. Chỉ có thể viết một chương mới bằng tấm lòng nhân văn, nhân ái, nếu không, sẽ mãi là “Một nỗi buồn mênh mông sâu thẳm cho phận dân mệnh nước mình”, như lời một người bạn tôi.

(Bài viết có tham khảo tư liệu trong cuốn “Making Two Vietnams” by Olga Dror. Việt Nam Nước Chia Hai Đàng - Le Tung Chau dịch).