PHẠM ĐÌNH TRỌNG
1. B ốn ngàn năm chí bền dựng nước, phải liên tục đương đầu với
giặc phương Bắc xâm lược đông và mạnh gấp nhiều lần. Bốn ngàn năm quả cảm mở
cõi chỉ có chiếc thuyền gỗ kiền và lá buồm cánh dơi mỏng manh phải đi vào tâm
bão của biển Đông để mở cõi, mở biển.
Mỗi nắm đất biên cương phía Bắc đều thấm đẫm máu ông cha ta
đã đổ ra hết thế hệ này đến thế hệ khác trong những trận chiến giữ đất kéo dài
trong lịch sử chống giặc phương Bắc xâm lược. Mỗi doi cát ngoài biển đông đều
là nấm mồ lớn ông cha ta gửi xác lại trong những chuyến đi vào bão táp biển
Đông cùng những đoàn thuyền lưới, thuyền câu người Việt đi khai thác biển bạc.
Bốn ngàn năm dựng nước và mở cõi, ông cha ta đã không để mất
một tấc đất ở biên cương, không để mất một núm cát ở biển Đông và đã để lại cho
chúng ta hôm nay dải non sông gấm vóc từ Lũng Cú, Hà Giang đến đảo Thổ Chu,
Kiên Giang, từ Trường Sơn đến Trường Sa.
Nhưng chỉ mấy chục năm qua thế hệ chúng ta đã để mất hàng
ngàn kilomet vuông đất biên cương thấm đẫm máu cha ông ở phía Bắc. Đã để mất những
doi cát vàng nơi ông cha đã gửi xác gửi hồn ở biển Đông.
Mất đất do hiệp định nhà nước cộng sản Việt Nam kí kết sang
nhượng. Mất điểm cao 1509 ở Vị Xuyên, Hà Giang, mảnh đất thấm đẫm máu và chôn
vùi xác hàng ngàn người lính Việt Nam trong những trận chiến ác liệt giữ đất
năm 1984. Mất phần tráng lệ nhất của thác Bản Giốc ở Đàm Thủy, Trùng Khánh, Cao
Bằng, thác nước kì vĩ đã đi vào trang sách, đi vào hồn người Việt Nam. Mất cổng
nước cổ kính và bi tráng của lịch sử ở Đồng Đăng, Lạng Sơn, nơi giặc hùng hổ rầm
rập kéo vào rồi tả tơi thân tàn tháo chạy ra. Nơi chứng kiến giọt nước mắt của
Nguyễn Trãi trong thời khắc chia li người cha bị giặc bắt đưa sang phương Bắc.
Giọt nước mắt còn hoen trong trang sử Việt Nam giữ nước.
Mất đảo do lệnh oái oăm ngang trái, lệnh trói tay người lính,
người lính đành bất lực nhìn giặc tràn lên cướp đảo, có súng trong tay mà không
được nổ súng, phải chờ giặc nổ súng giết mình trước, có may mắn sống sót mới được
nổ súng chống trả yếu ớt trong thương vong mất mát, trong thế bị động, trong thế
thua đã nắm chắc. Đảo Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa đã mất trong đau thương,
tức tưởi như vậy.
Những mảnh đất thiêng liêng của tổ tiên ở biên cương mất đi
theo hiệp định biên giới Việt Trung kí kết cuối năm 1999 là những vết thương
mãi mãi nhức nhối trên cơ thể Tổ Quốc Việt Nam, là nỗi đau muôn đời của lịch sử,
của giống nòi Việt Nam.
Lệnh trói tay người lính, không cho người lính nổ súng khi giặc
tràn lên cướp đảo. Lệnh buộc người lính giữ đảo phải trao cho giặc quyền làm chủ
tình thế, trao cho giặc quyền của người làm chủ đảo, trao cho giặc quyền được nổ
súng trước. Đó là lệnh bắt người lính giữ đảo, giữ biển của tổ tiên phải nhận
thương vong mất mát về minh và phải nhận thất bại lịch sử cho đất nước. Mất Gạc
Ma thuộc quần đảo Trường Sa năm 1988 trong tình thế đó, ngoài nỗi đau còn là nỗi
nhục. Những ngày đau mất Gạc Ma, tháng ba, năm 1988 chúng ta còn mất cả đá Chữ
Thập, đá Châu Viên, đá Ga Ven . . . Mất những chiếc cọc giậu trọng yếu trong
hàng cọc giậu ngoài thềm biển Đông. Một mảng phòng thủ trong thế trận giữ nước
đã bị xé toang. Ngày nay Tàu Cộng, kẻ chiếm bãi Gạc Ma, đá Chữ Thập của ta năm
1988 đã bồi đắp bãi Gạc Ma và đá Chữ Thập thành đảo nhân tạo và xây dựng sân
bay có đường băng dài hơn 3000 mét cho máy bay ném bom hạng nặng cất, hạ cánh ở
đảo Gạc Ma và đảo Chữ Thập
2. S ự kiện mất Gạc Ma lớn như vậy, đau như vậy mà 30 năm sau
mới có được tập sách nhỏ Gạc Ma Vòng Tròn Bất Tử. Tập sách nhỏ nhưng vô cùng
quí bởi đã ghi chép một sự kiện lịch sử, dù đau thương, mất mát nhưng rất cần
phải khắc ghi vào thời gian, vào lịch sử, khắc ghi vào tâm trí người Việt những
mảnh đất, những núm cát mang hồn tổ tiên bị giặc chiếm phải nhớ lấy mà giành lại,
không thể để mai một quên lãng, không thể để sự kiện Gạc Ma bị thời gian và những
cách nhìn cảm tính, hẹp hòi bóp méo đi không còn trung thực nữa. Tập sách càng
đáng quí bởi sách có được không do kế hoạch xuất bản của nhà nước mà sách là
thành quả của doanh nghiệp tư nhân, là tâm huyết, nỗ lực của vài cá nhân đau
đáu với vận nước, với trang sử giống nòi.
Nhưng tập sách quí vừa trình làng trong cuộc họp báo khá hạn
hẹp ở Sài Gòn, liền có tiếng nói phản bác, kết tội tập sách. Không nhiều ý kiến
phản bác tập sách, phản bác thiện chí người làm sách nhưng khá nặng lời, gay gắt
như mạt sát, sỉ vả và phát ngôn cho những ý kiến phản bác lại là một ông tướng,
thiếu tướng Hoàng Kiền, nguyên tư lệnh binh chủng công binh.
Tập sách bị kết tội nặng nề “một sự vu cáo xấu xa trắng trợn”,
chỉ vì một chi tiết nhỏ: “việc nói về có lệnh của cấp trên “không được nổ súng”
chèn vào trong cuốn sách là một ý đồ xấu, xuyên tạc sự thật lịch sử, làm cho
nhân dân ta nhất là thế hệ trẻ mất niềm tin về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo
của Tổ quốc”.
Sách viết rằng trong sự kiện Gạc Ma 14.3.1988, những người
lính quân đội Nhân Dân Việt Nam phải chấp hành lệnh “Không được nổ súng”. Còn
tướng cuốc, sẻng, đất, đá công binh Hoàng Kiền không có vốn liếng, nghiệp vụ
lính biển nhưng nhìn những người làm sách chỉ bằng nửa con mắt: “Những người viết
bài hầu hết chưa trải qua Hải quân, chỉ mới hiểu tác chiến trên bộ, chưa hiểu tác
chiến trên biển, chưa hiểu tương quan lực lượng Hải quân Việt Nam và Trung Quốc
khi ấy . . . Nếu nghe như những phát biểu của mấy vị ảo tưởng là một sai lầm
nghiêm trọng, chúng ta sẽ mất hết. Chính họ mới âm mưu tiếp tay cho TQ chiếm hết
Trường Sa, chúng ta không mắc mưu họ”.
Ông tướng công binh cao giọng giảng giải về sự kiện Gạc Ma:
“Họ gọi sự kiện Gạc Ma là cuộc chiến tranh trên biển (bài viết trên mạng có ảnh
của Thiếu tướng Lê Mã Lương) là hoàn toàn sai. Gọi là cuộc chiến Gạc Ma cũng
chưa đúng hoàn toàn. Gọi là cuộc xung đột vũ trang trên biển cũng là chưa chính
xác. Phải nói là: Sự kiện Gạc Ma, Trung Quốc dùng vũ lực đơn phương sát hại 64
cán bộ chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, bắn chìm hai tàu vận tải HQ 604, HQ
605, bắn cháy tầu đổ bộ HQ 505, chiếm đóng trái phép đảo Gạc Ma của Việt Nam.
Không có trận chiến, cuộc chiến nào cả.” Dồn dập trấn áp bằng ngôn từ rồi vị tướng
công binh hùng hồn khẳng định sự kiện Gac Ma 14.3.1988 chỉ có lệnh “Không được
nổ súng trước” mà thôi.
Kết tội sách Gac Ma Vòng Tròn Bất Tử, kết tội thiếu tướng Anh
hùng Lê Mã Lương, ngưởi chủ biên tập sách khi sách viết rằng mất Gạc Ma vì có lệnh
không được nổ súng, thiếu tướng Anh hùng Hoàng Kiền còn dẫn lời một loạt tướng
lĩnh: Phó Đô đốc Mai Xuân Vĩnh, Phó Đô đốc Nguyễn Văn Công, Trung tướng Trần
Qung Khuê, Trung tướng Phạm Đức Lĩnh, đại tá Trần Đình Dần phê phán Lê Mã Lương
nói bậy, Lê Mã Lương nói láo. “Lê Mã Lương nói bậy, ông ấy biết gì về Hải quân,
về sự kiện Gạc Ma mà nói” (Lời Phó Đô đốc Mai Xuân Vĩnh). Dồn dập ngôn từ, dồn
dập tiếng nói bác bỏ lệnh “Không được nổ súng” để tướng công binh Hoàng Kiền khẳng
định “Chỉ có lệnh “không được nổ súng trước” là hoàn toàn đúng đắn. Thể hiện đối
sách của Đảng và nhà nước ta giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, coi
trọng mối quan hệ Viêt Nam – Trung Quốc, không mắc mưu khiêu khích của đối
phương, sẽ là cái cớ cho họ lấn tới”.
3. C ả vú lấp miệng em, chủ quan, cao ngạo áp đặt chính kiến,
chiếm đoạt lẽ phải, tướng công binh Hoàng Kiền khăng khăng rằng chỉ có lệnh
“Không được nổ súng trước”. Nhưng diễn biến sự việc và chính từ lời tướng Hoàng
Kiền lại chứng minh rằng những người lính Việt Nam giữ Trường Sa trong sự kiện
ngày 14.3.1988, từ người chỉ huy đến người lính cắm cờ chủ quyền trên Gạc Ma đã
chấp hành nghiêm ngặt lệnh không được nổ súng và lệnh không được nổ súng đã bao
trùm lên toàn bộ sự kiện Gạc Ma 14.3.1988. Vài dẫn chứng.
MỘT. Ngoài đảo Ba Bình lớn nhất Trường Sa do Đài Loan chiếm
đóng từ 1945, đến cuối năm 1987 Trung Quốc lục địa chưa có một điểm đứng chân ở
Trường Sa. Nhưng nhiều năm qua lính Trung Quốc trên những con tàu vũ trang giả
dạng tàu đánh cá vẫn ngày đêm xục xạo khắp quần đảo Trường Sa. Đổ bộ lên những
bãi san hô ta đã đặt khối bê tông bia chủ quyền nhưng chưa đưa quân ra giữ,
lính Trung Quốc mặc đồ dân sự kéo bia chủ quyền của ta xuống biển rồi rút đi.
Bước vào năm 1988, Trung Quốc bỗng đột biến leo thang chiếm những bãi san hô
còn lập lờ trên mặt nước biển trong quần đảo Trường Sa của ta. Ngày 31.1.1988 họ
chiếm bãi Chữ Thập. Ngày 18.2.1988, họ chiếm bãi Châu Viên. Ngày 26.2.1988 họ
chiếm bãi Ga Ven. Ngày 28.2.1988, họ chiếm bãi Huy Gơ. . .
Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam phải tăng tốc thực hiện chiếnn dịch
CQ88, đưa quân ra giữ những bãi san hô chưa nổi hẳn lên khỏi mặt biển có nguy
cơ bị Trung Quốc chiếm. Tết Mậu Thìn, 1988 đến. Tư lệnh Giáp Văn Cương tuyên bố:
Không có Tết. Báo động toàn quân chủng. Chuyển sở chỉ huy chiến dịch CQ88 từ bộ
Tư lệnh Hải quân ở Hải Phòng vào Cam Ranh. Sáng mồng một Tết Mậu Thìn, Tư lệnh
Giáp Văn Cương lên chiếc máy bay quân sự AN26 từ sân bay Gia Lâm bay vào Cam
Ranh.
Khi Hải quân Việt Nam đưa quân ra cụm bãi Gạc Ma, Cô Lin, Len
Đao là khi Trung Quốc đã có một lực lượng chiến đấu hùng mạnh ở Trường Sa với
19 tàu uy lực nhất của Trung Quốc lúc đó gồm: Một khu trục lên lửa. Ba tàu khu
trục trang bị pháo 100 mm có tầm bắn xa trên 10 km và pháo 37 mm có tầm bắn gần
10 km. Bảy tàu hộ vệ tên lửa, Hai tàu hộ vệ pháo. Hai tàu đổ bộ. Ba tàu vận tải.
Một tàu hậu cần kéo theo một pông tông (cầu cảng nổi) lớn. Hạm đội hỗn hợp lớn
với cả chục chiến hạm tấn công, hỏa lực mạnh rình rập ở Trường Sa sẵn sàng xối
đạn vào lực lượng Hải quân Việt Nam, đánh chiếm đảo của Việt Nam.
Trước những họng súng tua tủa như vậy, ở điểm nóng Gạc Ma –
Cô Lin – Len Đao chỉ có tàu đổ bộ cổ lỗ HQ 505. Tối 11.3.1988, Tư lệnh Giáp Văn
Cương điều hai tàu vận tải nhỏ 500 tấn HQ 604 và HQ 605 đến Gạc Ma. Trên hai
con tàu chỉ có chức năng chở hàng và chở quân, không có chức năng tác chiến là
những người lính tay không, không có vũ khí chiến đấu: 70 lính công binh của
trung đoàn công binh hải quân 83 chỉ có cuốc, sảng, xà beng, 4 cán bộ đo đạc
thuộc cục bản đồ bộ Tổng Tham mưu và một đơn vị tác chiến nhỏ nhoi, 22 lính chiến
đấu thuộc lữ đoàn 146 chỉ có súng cá nhân AK và cơ số đạn cơ bản do lữ đoàn
phó, thiếu tá Trần Đức Thông chỉ huy. (Sau khi hi sinh cùng con tàu HQ 604, thiếu
tá Trần Đức Thông được truy tặng danh hiệu Anh hùng và được truy phong trung
tá).
Sẩm tối ngày 13.3.1988 tàu HQ604 đến Gạc Ma. Cùng với lính
công binh vận chuyển vật liệu xây dựng lên bãi Gac Ma còn có ba người lính lữ
đoàn 146 với hai khẩu AK lên cắm cờ chủ quyền. Sáng ngày 14.3.1988, gần trăm
lính Trung Quốc tràn lên Gạc Ma, những người lính Hải quân Việt Nam trên Gạc Ma
chỉ có hai khẩu AK với vài chục viên đạn. Nếu được chiến đấu chống trả, chỉ
không được nổ súng trước thôi thì không khi nào người chỉ huy lại đưa đến điểm
đối đầu Gạc Ma – Cô Lin – Len Đao ba con tàu không có chức năng chiến đấu và những
người lính tay không như vậy. Điều động lực lượng phi vũ trang ra Gạc Ma ở thời
điểm bùng nổ quyết định sự còn mất của Gạc Ma cho thấy lệnh không được nổ súng
đã nhất quán từ người chỉ huy cao nhất chiến dịch HQ88.
HAI. Sự việc diễn biến ở Gạc Ma sáng ngày 14.3.1988 càng khẳng
định lệnh không được nổ súng đã được quán triệt và đã thấm vào ý thức, đã chi
phối hành động của người lính giữ Gạc Ma, dẫn đến mất mạng oan ức của người
lính, dẫn đến mất nhanh chóng núm cát Gạc Ma của tổ tiên và dẫn đến nỗi đau của
hôm nay, nỗi nhục với mai sau.
Lính Trung Quốc tràn lên Gạc Ma, xô đến cướp lá cờ chủ quyền
của Việt Nam. Không giật được lá cờ trong tay trung úy Trần Văn Phương, tên chỉ
huy lính Trung Quốc nổ súng ngắn bắn chết trung úy Phương. Giặc đã nổ súng trước
giết chết sĩ quan lữ đoàn 146. Hai chiến sĩ 146 bảo vệ cờ có súng AK trong tay
vì sao không nổ súng chống trả để bảo vệ cờ? Đó là vì lệnh không được nổ súng?
Nhìn máu đồng đội đã đổ, căm thù sôi sục, quyết liệt hành động, binh nhất công
binh Nguyễn Văn Lanh cũng chỉ có thể vung xà beng vụt bay khấu súng trong tay
tên chỉ huy Trung Quốc.
Nếu chỉ là lệnh “Không được nổ súng trước”, tước đi thế chủ động
của ta thì khi tên chỉ huy giặc đã nổ súng và đã bị cú xà beng đánh bay mất
súng chính là thời cơ để ta giành lại thế chủ động với tiếng súng tự vệ của hai
người lính nắm AK trong tay bảo vệ lá cờ. Nhưng không một tiếng súng tự vệ chống
trả giặc. Hành động chiến đấu duy nhất của người lính Việt Nam bảo vệ Gạc Ma chỉ
là một cú vung xà beng đánh vào bàn tay giặc cầm súng để rồi người lính công
binh chiến đấu bằng xà beng phải lãnh mũi lê và đạn giặc găm vào người gục xuống
cùng với lá cờ đổ xuống, trùm lên người!
Vì không được nổ súng nên người lính ra trận đã không được
trang bị vũ khí tương xứng với nhiệm vụ. Người lính tay không trên Gạc Ma và
con tàu vận tải không vũ trang neo cạnh Gạc Ma trở thành những tấm bia sống hứng
đạn từ những khẩu pháo 100 mm, 37 mm trên ba tàu khu trục Trung Quốc xối xả bắn
tới cho đến khi những tấm bia sống bị xóa sạch trên biển Trường Sa. Nếu chỉ là
lệnh “Không được nổ súng trước” thì phải đáp trả khi bên kia đã khai súng. Để
có thể đáp trả phải có hỏa lực dù không tương đương cũng phải đủ sức sát thương
đối phương. Chống trả đám giặc tràn lên cướp đảo bằng chiến thuật biển người, lấy
thịt đè người mà chỉ có hai khẩu súng cá nhân với vài chục viên đạn thì rõ ra
người chỉ huy chiến dịch CQ88 trong điều động lực lượng đã phải chấp nhận, đã
phải thực hiện chỉ lệnh không được nổ súng.
BA. Dù “Không được nổ súng trước” nhưng giặc đã nổ súng, đã
khai chiến thì trách nhiệm và danh dự người lính giữ nước phải lên tiếng, phải
nổ súng chống trả. Có tiếng súng chống trả, dù yếu ớt thì Gạc Ma sáng 14.3.1988
đã thực sự là một cuộc chiến đấu tự vệ, một trận chiến giáp lá cà ác liệt. Hai
người lính của lữ đoàn 146 bảo vệ Trường Sa có AK trong tay nhưng tiếng súng
trách nhiệm và danh dự của người lính bảo vệ lá cờ chủ quyền không vang lên. Chỉ
có tiếng súng từ một phía của giặc Trung Quốc xâm lược. Vì sao vậy? Chỉ có thể
hiểu rằng lệnh không được nổ súng đã tước đoạt trách nhiệm và danh dự người
lính của họ, biến họ thành tấm bia sống hứng đạn của lũ giặc cướp nước. Cuộc đụng
độ chỉ có tiếng súng của một phía mới thành đơn phương. Chính tướng công binh
Hoàng Kiền đã thú nhận chỉ có tiếng súng đơn phương của quân cướp nước khi ông
viết: “Sự kiện Gạc Ma, Trung Quốc dùng vũ lực đơn phương sát hại 64 cán bộ chiến
sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, bắn chìm hai tàu vận tải HQ 604, HQ 605, bắn
cháy tầu đổ bộ HQ 505, chiếm đóng trái phép đảo Gạc Ma của Việt Nam. Không có
trận chiến, cuộc chiến nào cả.”
BỐN. Những hình ảnh trong video clip do chính Trung Quốc tung
lên mạng toàn cầu để khoe chiến công của hải quân Trung Quốc đánh chiếm Gac Ma
của Việt Nam ngày 14.3.1988 cũng nghi nhận sự câm lặng, không nổ súng của phía
mục tiêu mà lửa đạn Trung Quốc trút xuống. Camera lia từ những họng súng trên chiến
hạm Trung Quốc xuống vệt cát Gạc Ma. Trên chiến hạm, những tiếng hô Tả! Tả! dồn
dập. Những lưỡi lửa nhoáng nhoàng chớp lên. Dưới vệt cát Gạc Ma, đạn tới tấp
vãi xuống, nước biển bắn tóe lên. Lá cờ quằn quại trên ngọn sóng. Những cột nước
dựng lên quanh những người lính đầu trần, tay không. Chỉ có bóng những người
lính trần trụi và những cột nước dựng lên. Không một chớp lửa của viên đạn
thoát ra khỏi nòng súng. Dù chỉ là một chớp lửa nhỏ nhoi cũng không có. Nhìn
bóng những người lính trần trụi trên vệt cát Gạc Ma lần lượt biến mất trên ngọn
sóng Trường Sa, nước mắt tôi lặng lẽ ứa ra. Những tấm bia sống trên vệt cát Gạc
Ma đang thưa dần là những người lính lữ đoàn 146 Hải quân Việt Nam, là những
người lính trung đoàn 83 công binh Hải quân Việt Nam.
Bốn dẫn chứng, từ toàn cảnh rộng điều động, sử dụng lực lượng
cho đến chi tiết nhỏ diễn biến sự việc trên Gạc Ma đủ cho thấy điều áp đặt của
tướng công binh Hoàng Kiền “Chỉ có lệnh không được nổ súng trước” là không có
cơ sở.
Không được nổ súng! Trong sự kiện Trường Sa 14.3.1988 không một
tiếng súng của những người lính Việt Nam bắn trả bọn xâm lược, chỉ có tiếng
súng các loại, các cỡ xối xả bắn giết người lính Việt Nam giữ Trường Sa, cướp
núm cát Gạc Ma mang hồn tổ tiên người Việt Nam trong quần đảo Trường Sa của Việt
Nam.
4. T rong nỗi đau Gạc Ma ngày 14.3.1988, lệnh “Không được nổ
súng” là lệnh bắt người lính giữ Gạc Ma phải đầu hàng kẻ xâm lược. Lệnh “Không
được nổ súng trước” là lệnh trói tay người lính giữ núm cát Gạc Ma, giao quyền
chủ động, quyền quyết định mạng sống của người lính giữ Gạc Ma, quyền quyết định
số phận núm cát Gạc Ma cho kẻ cướp Gạc Ma. Mức độ khác nhau nhưng những lệnh đó
đều nguy hại cho đất nước, đều là tội đồ của giống nòi Việt Nam. Với người
lính, cả hai lệnh đó đều là sự sỉ nhục người lính, xúc phạm danh dự người lính,
mang người lính ra làm vật hi sinh. Với nhân dân, với đất nước, cả hai lệnh đó
đều là tội phản bội giống nòi Việt Nam, phản bội lịch sử Việt Nam, phản bội Tổ
quốc Việt Nam.
Tên cướp xông vào nhà cướp tài sản nhưng chủ nhà “giải quyết
tranh chấp bằng biện pháp hoà bình” đợi cho tên cướp vung dao chém chủ nhà rồi
chủ nhà mới dám chém lại! Ứng xử dại dột, ngu xuẩn như vậy liệu sau nhũng cú
vung dao của tên cướp chuyên nghiệp tới tấp xả xuống, ông chủ nhà hèn nhát có
còn sống sót để mà chém lại tên cướp! Dù có sống sót thì chủ nhà cũng đã giao
thế chủ động cho tên cướp rồi, cũng đã phơi bầy, thú nhận với kẻ cướp sự nhu
nhược, hèn nhát và tự nhận lấy phần thất thế, phần thua về mình rồi, làm sao
còn giữ được tài sản!
Nỗi đau Gạc Ma ngày 14.3.1988 còn tệ hơn nữa. Những người
lính giữ Gạc Ma chỉ có hai khẩu AK cũng không được bắn bọn giặc tràn lên đảo cướp
lá cờ chủ quyền. Những người lính giữ Gạc Ma đành phơi thân hứng đạn pháo của
giặc. Đành để núm cát hương hỏa của ông bà rơi vào tay giặc. Đành chấp nhận cái
chết tức tưởi. Vậy mà người ta vẫn còn liến thoắng, lem lẻm, trí trá: “Không được
nổ súng trước” là hoàn toàn đúng đắn. Thể hiện đối sách của Đảng và nhà nước ta
giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, coi trọng mối quan hệ Viêt Nam –
Trung Quốc, không mắc mưu khiêu khích của đối phương, sẽ là cái cớ cho họ lấn tới”.
Ỷ thế nước lớn, bất chấp luật pháp và dư luận, Trung Quốc muốn
đánh Việt Nam lúc nào thì đánh, họ đâu cần phải khiêu khích để Việt Nam nổ súng
trước rồi họ mới nổ súng. Vực dậy đất nước Trung Hoa sau cách mạng văn hóa làm
cho đất nước Trung Hoa tan hoang, lòng dân li tán, kinh tế kiệt quệ, ngày
17.2.1979, Đặng Tiểu Bình liền cất quân đánh Việt Nam với tính toán: Đối nội,
kích động tinh thần Đại Hán, tập hợp lại lòng dân, tạo khí thế bừng bừng cho
người dân Trung Hoa bước vào thời kì khôi phục lại đất nước. Đối ngoại, ve vãn
nước Mỹ giầu có để khai thác nguồn vốn và công nghệ. Và Đặng Tiểu Bình đã chấn
hưng được đất nước Trung Hoa bằng máu của hàng chục ngàn người Việt Nam.
Lịch sử giữ nước của cha ông đã dạy chúng ta đối sách với
Trung Quốc. Dù Trung Quốc xấu đến đâu chúng ta cũng phải coi trọng mối bang
giao với Trung Quốc. Nhưng coi trọng mối bang giao với Trung Quốc để bảo vệ chủ
quyền chứ quyết không thí bỏ một tấc đất chủ quyền lãnh thổ để giữ mối bang
giao với Trung Quốc. Nhà nước cộng sản Việt Nam đã cắt hàng ngàn kilomet đất của
tổ tiên người Việt ở Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn để làm đẹp lòng Trung Quốc.
Đó là tội lớn với lịch sử, với cha ông, với muôn đời con cháu mai sau. Nay
trong sự kiện Gạc Ma ngày 14.3.1988, dù là lệnh “Không được nổ súng” hay lệnh
“Không được nổ súng trước” cũng là lệnh đầu hàng, dâng Gạc Ma, dâng máu của 64
người lính Việt Nam cho tham vọng bành trướng Trung Quốc. Lại thêm một tội tày
trời!
Đất đai lãnh thổ là hương hỏa thiêng liêng của cha ông để lại,
là di sản của lịch sử, là tài sản của hôm nay và mai sau, là thế đứng hiên
ngang của một đất nước, một dân tộc dưới mặt trời, trước nhân loại. Giặc đến
nhà, đàn bà cũng đánh. Khi đội quân nước ngoài đặt bước chân xâm lược lên mảnh
đất hương hỏa thiêng liêng thì từ em thiếu niên, đến người đàn bà thường dân
cũng phải cầm vũ khí đánh giặc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Lệnh buộc người lính đầu
hàng, lệnh trói tay người lính khi giặc tràn lên cướp đảo Gạc Ma là lệnh ô nhục
chưa từng có trong lịch sử bốn ngàn năm giữ nước và mở cõi của dân tộc Việt
Nam.
5. T ôi càng vô cùng ngạc nhiên khi thiếu tướng công binh
Hoàng Kiền viết:
“Hải quân nhân dân Việt Nam cùng lực lượng QK5 giải phóng 5 đảo
thuộc quần đảo Trường Sa do quân đội Sài Gòn đóng giữ trước 30/4/1975 gồm Trường
Sa, Song Tử Tây, Nam Yết, Sinh Tồn, Sơn Ca.
Đến năm 1978 đóng hết 4 đảo nổi còn lại là: Trường Sa Đông,
Sinh Tồn Đông, An Bang, Phan Vinh.
Cho đến thời điểm này Trung Quốc chưa hề nghĩ đến Trường Sa”.
Hóa ra “Với gần mười sáu năm công tác ở Hải quân, gần mười
năm gắn bó với Trường Sa”, vị sĩ quan công binh Hoàng Kiền chẳng hiểu gì về Trường
Sa, chẳng hiểu gì về những con sóng, những mây đen vần vũ, những ngột ngạt ở biển
Đông trước những cơn bão dữ.
Không phải cho đến năm 1978 Trung Quốc chưa hề nghĩ đến Trường
Sa. Trường Sa là biển Đông. Trung Quốc nghĩ đến Trường Sa, tìm cách đứng chân ở
biển Đông từ ngay sau khi Mao Trạch Đông thiết lập nhà nước cộng sản Trung Hoa ở
Bắc Kinh, năm 1949. Trung Quốc thèm khát biển Đông, nhòm ngó biển Đông trước cả
khi Trung Quốc hướng khát vọng bành trướng về phía Tây, trước cả khi Trung Quốc
đánh chiếm Tây Tạng năm 1959.
Trước năm 1955 Pháp cai trị Đông Dương cũng thiết lập sự quản
trị với Trường Sa, Hoàng Sa. Hiệp định Genève 1954 buộc Pháp chấm dứt cai trị
Đông Dương và chia cắt Việt Nam thành hai miền với hai nhà nước. Hoàng Sa, Trường
Sa thuộc quyền quản trị của nhà nước Việt Nam Cộng Hòa ở phía Nam. Năm 1955,
người lính Pháp cuối cùng rút khỏi Đông Dương và chính quyền Sài Gòn chưa kịp
đưa quân ra giữ Hoàng Sa. Lập tức Bắc Kinh đưa quân giả dạng dân đánh cá lên
chiếm hai đảo lớn nhất trong quần đảo Hoàng Sa là đảo Phú Lâm và đảo Linh Côn.
Từ đó, tàu vũ trang của Trung Quốc giả dạng tàu đánh cá ráo riết rình rập, xục
xạo khắp biển Đông, từ Hoàng Sa tới Trường Sa. Sau khi đánh chiếm được toàn bộ
quần đảo Hoàng Sa ngày 19.1.1974, Trung Quốc càng tập trung nhòm ngó Trường Sa.
Trong chuyến đi thực tế ở Hải quân, tháng năm, 1978, tôi và
nhà thơ quân đội Trần Đăng Khoa đã có mặt trong đoàn của Bộ Tư lệnh Hải quân do
Thiếu tướng Giáp Văn Cương, Tư lệnh và Thiếu tướng Hoàng Trà, chính ủy quân chủng
Hải quân chỉ huy đi kiểm tra tất cả các điểm nổi trong quần đảo Trường Sa. Một
buổi chiều chúng tôi vừa bước chân lên đảo Sinh Tồn thì thấy chim biển từng đàn
bay từ phía tây nam đến, táp xuống Sinh Tồn. Ngửa mặt nhìn đàn chim, đảo trưởng
Sinh Tồn nói: Quân Trung Quốc lại đang xục xạo ở Gạc Ma đó. Thượng tá, phó tham
mưu trưởng quân chủng Hải quân Bùi Ủy ngạc nhiên hỏi: Sao cậu biết? Đảo trưởng
Sinh Tồn giải thích rằng cứ mỗi lần có tàu Trung Quốc ngang qua đây đi về hướng
Gạc Ma thì chỉ hơn tiếng sau từ hướng Gạc Ma chim xao xác bay về đây. Lính Sinh
Tồn xác định rằng Tàu Trung Quốc đã đổ quân lên Gạc Ma xục xạo, đập bắt chim,
chim phải kéo về Sinh Tồn. Nghe vậy, thượng tá Bùi Ủy liền cùng mấy sĩ quan
trinh sát, tác chiến xuống ngay tàu, sang Gạc Ma. Khi trở về, thượng tá Bùi Ủy
khen lính Sinh Tồn giỏi, phán đoán đúng.
Trung Quốc nung nấu đánh chiếm những núm cát Trường Sa từ trước
năm 1988, từ trước năm 1978. Tháng năm, 1978 chúng tôi phải chứng kiến những
đàn chim từ Gạc Ma xao xác bay về Sinh Tồn. Nhưng những con tàu chiến Trung Quốc
giả dạng tàu đánh cá rình rập ở Trường Sa, đổ người lên Gạc Ma xục xạo đã diễn
ra từ nhiều năm trước.
Lịch sử chủ quyền của Trung Quốc ở phía Nam chỉ đến đảo Hải
Nam. Lịch sử chủ quyền Việt Nam với Hoàng Sa, Trường Sa đã có từ thời nhà Lê.
Nhà nước Việt Nam đã quản lí hành chính lãnh thổ Hoàng Sa, Trường Sa từ thời
nhà Lê, nhà Nguyễn. Cai trị Việt Nam, nhà nước Pháp tiếp tục quản lí hành chính
Hoàng Sa, Trường Sa từ thế kỉ 19 trong sự thừa nhận của Chính phủ tất cả các nước
trên thế giới.
Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ đích thực của Việt Nam từ
trong chiều sâu lịch sử, không phải là lãnh thổ tranh chấp với Trung Quốc. Ngày
nay, những người quản lí nhà nước về lãnh thổ Việt Nam đặt giai cấp lên trên
dân tộc, hồn giai cấp lấn át hồn dân tộc đã coi biển Đông, coi Hoàng Sa, Trường
Sa là điểm tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc và “nhà nước ta giải quyết
tranh chấp bằng biện pháp hoà bình”. Đã là tranh chấp thì kẻ có sức mạnh bạo lực
lớn hơn sẽ thắng. Sức mạnh bạo lực của kẻ cướp Gạc Ma càng tăng lên gấp bội khi
những người lính Việt Nam giữ Gạc Ma chỉ có tay không phải đối đầu với những họng
súng, những nòng pháo, những dàn tên lửa của Trung Quốc xâm lược. Và chúng ta
đã mất Gạc Ma.
QUY TRÌNH
VÔ HIỆU HÓA NHỮNG TIẾNG NÓI MẠNH MẼ ĐÒI DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN
VÔ HIỆU HÓA NHỮNG TIẾNG NÓI MẠNH MẼ ĐÒI DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN
BƯỚC 1. Truy tố, bắt giam.
...Xem thêm
Ảnh đầu tiên.
Trường Sa 1978. Từ phải. Tư lệnh Giáp Văn Cương hàng ngồi, thứ
hai. Phạm Đình Trọng đứng sau Giáp Văn Cương. Trần Đăng Khoa đứng hàng trên
ngoài cùng bên trái
Ảnh cuối cùng
Trường Sa 1988. Bộ trưởng bộ Quốc phòng Lê Đức Anh. Hàng
trên, đứng giữa. Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương, hàng trên, ngoài cùng, bên
trái
No comments:
Post a Comment