90 NĂM ĐẢNG BÚA LIỀM
PHẠM ĐÌNH TRỌNG
Đảng búa liềm Việt Nam chọn ngày 3.2.1930 là ngày khai sinh tổ
chức của họ. Từ đó, sau khi cướp được chính quyền và cướp được một vùng lãnh thổ
để vỗ ngực xưng hùng xưng bá và ngạo ngược cưỡi đầu cưỡi cổ dân, hàng năm, cứ đến
ngày sinh của đảng búa liềm, cả hệ thống truyền thông dối trá, lừa bịp của nhà
nước búa liềm lại chạy hết công suất kể công lao tưởng tượng của họ. Nhờ có đảng,
đất nước mới có độc lập, người dân mới có được cuộc sống như ngày hôm nay.
Ngoài những tội ác man rợ với người dân, đảng búa liềm khát
máu đã để lại những trang đau thương đẫm máu nhất trong lịch sử Việt Nam. Ngoài
những tội tày trời với quá khứ dựng nước và giữ nước vẻ vang của cha ông, đảng
búa liềm ô nhục đã xẻ hàng ngàn cây số vuông đất biên cương, hàng vạn hải lí biển
dâng cho vương triều búa liềm Đại Hán. Đảng búa liềm Việt Nam còn tội ác thăm
thẳm không thể định lượng, không thể cân đo bằng đại lượng vật chất mà chỉ có
thể tính bằng đại lượng vô giá là thời gian, bỏ phí thời gian vàng phát triển, giết
hại, đọa đày, uổng phí những thế hệ vàng người Việt.
1. TRĂM NĂM PHÁP THUỘC BIÊN CƯƠNG VIỆT NAM MỞ RỘNG VÀ BỀN VỮNG,
VĂN HÓA VIỆT NAM ĐƯỢC BẢO TỒN TRỌN VẸN VÀ PHÁT TRIỂN, QUYỀN CON NGƯỜI ĐƯỢC BẢO
ĐẢM. THỜI VƯƠNG TRIỀU BÚA LIỀM, ĐẤT ĐAI CỦA CHA ÔNG BỊ MẤT, QUYỀN CON NGƯỜI CỦA
NGƯỜI DÂN KHÔNG CÒN.
Là thuộc địa của Pháp, nhưng nước Pháp xâm lược vẫn coi Việt
Nam là một dân tộc có bản sắc văn hóa độc đáo riêng và rất coi trọng bảo tồn nền
văn hóa đặc sắc Việt Nam. Cùng với việc mở đường sắt, đường nhựa, xây nhà máy
phát điện, xây nhà hát, Pháp còn xây những tòa lâu đài ánh sáng làm bảo tàng,
thư viện lưu giữ nền văn hóa đặc sắc Việt Nam. Nước Pháp còn có những nhà khoa
học lớn giành cả cuộc đời khoa học cho việc sưu tầm, ghi chép, lưu trữ bản sắc
văn hóa Việt Nam như nhà dân tộc học Georges Condominas (1921 – 2011).
Nước Pháp cũng rất có trách nhiệm trong việc bảo toàn lãnh thổ
Việt Nam đã được xác định trong lịch sử. Năm 1887, Pháp đã kí công ước với nhà
Thanh xác định biên giới, dựng cột mốc phân chia rạch ròi giới hạn quốc gia hai
nước Việt Nam – Trung Hoa. Tám năm sau, năm 1895, Pháp lại đòi nhà Thanh kí
công ước biên giới Việt – Trung lần thứ hai. Với lí lẽ của lịch sử Việt Nam, với
tầm văn hóa của nhà nước đang quản lí đất nước Việt Nam, người Pháp đàm phán và
kí công ước biên giới 1895 đã giành lại cho Việt Nam một dải đất lưu lạc đang
thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Hoa quản lý, nay là đất gồm các huyện Mường Tè, Phong
Thổ, Sìn Hồ, Tam Đường thuộc tỉnh Lai Châu, các huyện Mường Chà, Mường Nhé, Tủa
Chùa thuộc tỉnh Điện Biên.
Một điều cần khắc ghi là: Trên bản đồ cả hai công ước 1887 và
1895, cột mốc xác định biên giới Việt – Trung đều cách xa thác Bản Giốc về phía
Bắc 12 km.
Kế tục triều nhà Nguyễn, người Pháp quản lí giữ gìn nguyên vẹn
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, dựng bia chủ quyền mang tên nước Việt Nam,
đặt trạm khí tượng ở Hoàng Sa và Trường Sa. Pháp cũng xây dựng lại cổng nước bề
thế, uy nghiêm trấn giữ phía Bắc ở Lạng Sơn, nơi diễn ra cuộc chia tay lịch sử
của cha con Nguyễn Trãi. Cha bị giặc Minh bắt đưa sang đất giặc. Con dừng lại ở
vạch giới hạn biên ải đau đớn nhìn theo cha rồi mang mối thù giặc trở về làm
lên trang lịch sử chói lọi, cùng Lê Lợi dấy binh đánh tan giặc Minh xâm lược.
Nay vương triều búa liềm Hà Nội đã cắt nửa thác Bản Giốc ở
Cao Bằng và toàn bộ cổng nước ở Lạng Sơn dâng cho vương triều búa liềm Bắc
Kinh. Thừa hận thù giai cấp, thiếu vắng lòng yêu nước, không đủ tầm quản lí đất
nước và nhân cách thấp hèn của vương triều búa liềm Hà Nội đã giúp cho vương
triều búa liềm Bắc Kinh dễ dàng thôn tính toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và một phần
trọng yếu trong quần đảo Trường Sa.
Là một nền văn hóa lớn, nước Pháp đã đi đầu trong triết học
Ánh Sáng với những nhà tư tưởng lớn Montesquieu (1689 – 1755), Voltaire (1694 –
1778), Jean-Jacques Rousseau (1712 – 1778) đã mở ra một thời kì sáng lạn cho
loài người: Xác nhận sự có mặt của mỗi cá thể con người. Tách cá nhận khỏi bầy
đàn. Khẳng định quyền con người: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Nước
Pháp cũng đi đầu trong cách mạng công nghiệp khởi đầu từ cách mạng tư sản dân
quyền 1789.
Thuộc địa Việt Nam bị thực dân Pháp cai trị vô cùng hà khắc
nhưng trí tuệ Việt Nam tiếp nhận nền văn hóa Pháp đã tạo ra một đội ngũ trí thức
lớn và đông đảo chưa từng có. Không có văn hóa Pháp, không có lớp học giả sừng
sững trong thời gian như Trương Vĩnh Ký, Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm
Quỳnh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường . . . và lớp văn nghệ sĩ để lại dấu ấn
vàng son trong lịch sử văn hóa Việt Nam như Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam, Vũ
Trọng Phụng, Vũ Hoàng Chương, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Thế Lữ, Chế Lan
Viên, Nguyên Hồng, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái, Lê
Phổ, Mai Trung Thứ, Phạm Duy, . . .
Lòng yêu nước và ý chí tự cường Việt Nam gặp cách mạng công
nghiệp Pháp đã khích lệ những ý chí chấn hưng đất nước Việt Nam, tạo ra những
nhà tư sản dân tộc và những doanh nhân công nghiệp, mở ra nền kinh tế công nghiệp
Việt Nam với những nhà máy tư nhân, hãng buôn tư nhân, hàng trăm tờ báo và hàng
chục nhà xuất bản tư nhân. Hãng buôn Bạch Thái Bưởi. Hãng sơn Nguyễn Sơn Hà.
Các nhà xuất bản Đông Kinh Ấn Quán, Mai Lĩnh. Đời Nay. Tân Dân, Hàn Thuyên, Lê
Cường . . . Những nhà tư sản dân tộc càng giầu tiền bạc, càng giầu lòng yêu nước
như Đỗ Đình Thiện, Trịnh Văn Bô, Ngô Tử Hạ, Nguyễn Thị Năm . . .
Đông Pháp Thời Báo, Đuốc Nhà Nam, Phụ Nữ Tân Văn, Gia Định
Báo, Nhựt Trình Nam Kì, Lục Tỉnh Tân Văn, Thông Thoại Khóa Trình, Đại Nam Đồng
Văn, Đại Việt Tân Báo, Nông Cổ Mín Đàm, Đăng Cổ Tùng Báo, Nam Kỳ Tuần Báo, Đông
Dương Tạp Chí, Tiếng Chuông, Buổi Sáng, Ánh Sáng, Sài Gòn Mới, Công Luận, Nam
Phong, Thần Chung, Ngày Nay, Khai Hóa Nhật Báo, Việt Nam Hồn Báo, Tinh Hoa, Hà
Nội Báo, Thời Mới,. . . Không thể liệt kê xuể hàng trăm tờ báo giấy của tư nhân
ra hàng ngày, hàng tuần ở các đô thị Việt Nam thời Pháp thuộc. Những tờ báo, tạp
chí tư nhân phát hành rộng rãi trên cả nước mang ánh sáng văn minh công nghiệp
đến với người dân vừa rời đồng ruộng ra thị trấn, thành phố, mang tinh thần tự
do ngôn luận của cách mạng tư sản Pháp vào đời sống xã hội Việt Nam. .
Sự có mặt hàng trăm tờ báo tư nhân trong đời sống xã hội và
những cuộc biểu tình hàng chục, hàng trăm ngàn người rầm rộ diễn ra trên cả nước
suốt thời Pháp thuộc còn xác nhận một điều hiển nhiên của lịch sử và là sự đối
chứng với xã hội Việt Nam thời búa liềm mông muội. Dù là kẻ xâm lược nhưng nước
Pháp của văn minh công nghiệp, của cách mạng tư sản dân quyền cai trị Việt Nam
đã bảo đảm quyền con người của người dân Việt Nam bị trị với những quyền cơ bản:
quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền tự do biểu tình. Trong khi
nhà nước cộng sản Việt Nam cai trị người Việt Nam, những quyền con người cơ bản
đó chỉ có trong giấc mơ của người dân. Vài chục người chỉ có tờ giấy, mảnh vải
băng rôn trong tay tập hợp ôn hòa bộc lộ ý nguyện bảo vệ tổ quốc, bảo vệ môi
trường sống, lập tức bị vu là thế lực thù địch, bị đánh đổ máu, gãy chân, chấn
thương sọ não và phải nhận những bản án hàng chục năm ngục tù.
2. CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP ĐƯA TƯ BẢN HOANG DÃ ĐẾN TƯ BẢN NHÂN
VĂN, TẤT YẾU CŨNG ĐƯA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI TỪ NÔ LỆ SANG ĐỘC LẬP
Con đường tất yếu của xã hội công nghiệp là đi từ tư bản
hoang dã đến tư bản nhân văn. Công nghiệp tạo ra nhà tư sản. Nhà tư sản tích
lũy tư bản ban đầu bằng bóc lột người lao động trong nước và đi xâm lược mở thị
trường, vơ vét nguyên liệu ở thuộc địa. Đó là nanh vuốt của con thú tư bản
hoang dã.
Khoa học kĩ thuật khai sinh ra công nghiệp và công nghiệp lại
thúc đẩy khoa học kĩ thuật phát triển. Tác động qua lại đó dẫn đến sản xuất
công nghiệp ngày càng tinh xảo đến kì diệu vừa giải phóng con người khỏi dây
chuyền công nghệ, vừa cho năng suất lao động rất cao, lợi nhuận rất lớn. Những
cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật nối tiếp đã đưa loài người bước những bước dài
tới xã hội giầu có, văn minh, lương thiện.
Lợi nhuận tư bản có được không phải từ bóc lột sức lao động nữa
mà từ khoa học kĩ thuật và từ tài năng con người. Với khoa học kĩ thuật, cả thế
giới đã là một thị trường rộng mở và với tài năng con người, mọi người đều có
thể trở thành ông chủ, bà chủ, trở thành tư bản và là những tư bản nhân văn với
hai bàn tay sạch và tâm hồn rộng lớn bao dung với số phận cả loài người và yêu
thương, chia sẻ với thân phận từng con người như Bill Gates, Warren Buffett,
Jeff Bezos, George Soros, Michael Bloomberg, Paul Allen, James Simons, Philip
Anschutz, Dustin Moskovitz . . ., những ông chủ tư bản đã dốc túi ra hết tỉ đô
la này đến tỉ đô la khác làm từ thiện khắp thế giới.
Tính người được đánh thức trong xã hội công nghiệp văn minh.
Sự bóc lột, ngược đãi với con người, với thiên nhiên trở thành tội ác trong luật
pháp các nước văn minh và bị hiến chương Liên Hợp Quốc lên án, loại bỏ. Quyền
con người của mỗi cá thể và quyền tự quyết của mỗi dân tộc được nhìn nhận. Từ
giữa thế kỉ 20, thời tư bản nhân văn đã thực sự đến với xã hội loài người.
Ngày 1.4.1960, Liên Hợp Quốc ra Nghị quyết 1514 của Đại Hội đồng
Liên Hợp Quốc đòi hỏi các nước có thuộc địa phải trao trả độc lập cho các nước
và các dân tộc thuộc địa. Nghị quyết xác định: “Sự nô dịch các dân tộc xuất
phát từ ách cai trị, sự đô hộ và bóc lột của ngoại bang cấu thành sự phủ nhận
các quyền cơ bản con người là trái với Hiến chương Liên Hợp Quốc và là một sự cản
trở đối với việc thúc đẩy hòa bình và hợp tác trên thế giới. Tất cả các dân tộc
có quyền tự quyết xuất phát từ quyền này, các dân tộc tự do quyết định địa vị
chính trị của mình và tự do theo đuổi sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa
. . . Tất cả các quốc gia phải tuân thủ một cách nghiêm túc và chặt chẽ các quy
định của Hiến chương Liên Hợp Quốc, Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới và Tuyên bố
này trên cơ sở bình đẳng, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia
và tôn trọng chủ quyền của tất cả các dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ của họ”.
Bước vào xã hội công nghiệp, loài người bước vào thời phát
triển rực rỡ, nhanh chóng đi đến giầu có, văn minh, đáp ứng mọi nhu cầu của con
người, nâng con người lên tầm vóc khổng lồ làm chủ cả vũ trụ. Nhưng xã hội Việt
Nam vừa bước vào công nghiệp, vừa bước vào văn minh đô thị thì đảng búa liềm Việt
Nam ra đời đã dìm Việt Nam vào biển lửa bạo lực cách mạng và chiến tranh, dìm
Việt Nam vào biển máu hận thù đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản, tách
Việt Nam khỏi dòng chảy cuồn cuộn của thế giới trong cuộc sống công nghiệp đi đến
ánh sáng văn minh, tròng ách nô lệ cộng sản vào thân phận người dân Việt Nam. Một
thảm họa khủng khiếp và oan nghiệt đã giáng xuống đầu đàn cháu chắt lam lũ và
đau khổ của các vua Hùng hiển hách.
3. CHẶN ĐỨNG BƯỚC PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM ĐANG TRONG
DÒNG CHẢY ÀO ẠT CỦA LỊCH SỬ LOÀI NGƯỜI ĐI TỚI XÃ HỘI CÔNG NGHIỆP VĂN MINH, ĐẢNG
BÚA LIỀM ĐƯA XÃ HỘI VIỆT NAM VỀ THỜI PHONG KIẾN TRUNG CỔ
Đầu thế kỉ trước, một nhịp sống công nghiệp, một nền văn minh
đô thị đang hình thành ở xứ sở của nền văn minh lúa nước Việt Nam. Là thuộc địa
của nước Pháp công nghiệp, Việt Nam đang bước những bước đi đầu tiên vào xã hội
công nghiệp, vào văn minh đô thị thời tư bản hoang dã. Theo tiến trình lịch sử,
đã bước vào tư bản hoang dã tất sẽ đi đến tư bản nhân văn, đi đến quyền dân tộc
tự quyết theo Nghị quyết 1514 ngày 1.6.1960 của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc, nước
xâm chiếm thuộc địa phải trao trả độc lập cho nước thuộc địa. Quá trình công
nghiệp hóa, đô thị hóa cũng là quá trình tất yếu khai dân trí, chấn dân khí.
Nhưng ngọn lửa cách mạng vô sản do đảng búa liềm thổi bùng
lên khởi đầu bằng cuộc bạo loạn của nông dân Xô Viết Nghệ Tĩnh “Trí Phú Địa Hào
đào tận gốc, trốc tận rễ” đã dìm giống nòi Việt Nam vào biển máu hận thù giai cấp.
Từ thảm họa Xô việt Nghệ Tĩnh 12.09.1930 đến thảm họa Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội
09.01.2020, suốt 90 năm ròng cai trị bằng bạo lực, bằng chia rẽ, hận thù, chưa
khi nào đảng búa liềm ngừng kích động người Việt giết người Việt.
Giương ngọn cờ giải phóng dân tộc lừa dối để tập hợp người
dân. Dùng sức mạnh nhân dân giành quyền thống trị. Nắm được quyền thống trị xã hội,
đảng búa liềm hiện rõ chân tướng là một vương triều phong kiến. Vua phong kiến
chỉ truyền ngôi cho con cháu trong dòng dõi nhà vua. Đảng búa liềm chỉ chuyển
giao quyền lực cướp được của dân cho người trong đảng để đảng đời đời kiếp kiếp
nắm quyền cai trị.
Ở các nước dân chủ, mỗi nhiệm kì chuyển giao quyền lực là một
dịp người tài trong dân được phát hiện và người dân lại được sử dụng quyền lực
của mình chọn người tài trong dân quản trị đất nước. Với nhà nước búa liềm, quyền
lực của dân là quyền ứng cử và bầu cử vào bộ máy nhà nước đã bị đảng búa liềm
cướp mất, Chỉ người trong đảng mới được đảng búa liềm qui hoạch, phân chia cho
chiếc ghế quyền lực. Những trò qui hoạch cán bộ của đảng búa liềm là sự ngang
nhiên cướp đoạt quyền dân, là sự khinh bỉ miệt thị, xỉ nhục thậm tệ với người
dân.
Trong xu thế thời đại dân chủ, nhà nước búa liềm phải ghi vào
hiến pháp quyền tự do bầu cử, ứng cử, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền
lập hội, quyền biểu tình nhưng thực tế người dân Việt Nam hoàn toàn không có những
quyền đó. Không còn những quyền con người cơ bản, không còn cá nhân, người dân
chỉ là “quần chúng cách mạng”, là bầy đàn như thời trung cổ. Phủ nhận những quyền
con người cơ bản của người dân, đảng búa liềm đã đi ngược tiến trình lịch sử,
chống lại Hiến chương Liên Hợp Quốc, chống lại Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới.
Lí tưởng xuất phát của học thuyết Mác xóa bỏ bất công, bóc lột,
giải phóng con người là lí tưởng nhân văn. Nhưng những kẻ thực hiện học thuyết
Mác bằng chuyên chính vô sản dùng bạo lực nhà nước tước đoạt quyền con người của
người dân, người dân không còn cá nhân chỉ là bầy đàn nô lệ thời hồng hoang. Chủ
nghĩa tư bản đi từ tư bản hoang dã đến tư bản nhân văn thì chủ nghĩa cộng sản
đã đi con đường ngược lại, từ lí tưởng cộng sản nhân văn đến xã hội cộng sản
hoang dã. Đưa dân tộc Việt Nam đi con đường ngược với tiến trình lịch sử loài
người, đảng búa liềm đã kéo xã hội Việt Nam thụt lùi về thời phong kiến. Không
chỉ đưa xã hội Việt Nam về thời phong kiến, đảng búa liềm còn đưa giống nòi Việt
Nam vào thời Bắc thuộc đau thương, tủi nhục và tăm tối.
4. LẤY HẬN THÙ GIAI CẤP ĐÁNH TAN RÃ, LI TÁN KHỐI ĐOÀN KẾT DÂN
TỘC, ĐẢNG BÚA LIỀM ĐÃ VIẾT NHỮNG TRANG Ô NHỤC NHẤT TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM
Sát nách một đất nước khổng lồ ở phương Bắc, một nhà nước xâm
lược mà lịch sử mấy ngàn năm tồn tại chỉ là liên tiếp những cuộc chiến tranh
xâm lược, thôn tính lân bang và đất nước Việt Nam bé nhỏ, dân tôc Việt Nam hiền
hòa luôn là nạn nhân của những cuộc chiến tranh xâm lược thảm khốc từ phương Bắc.
Bí quyết duy nhất để dân tộc Việt Nam bé nhỏ vượt qua những cuộc chiến tranh
xâm lược khốc liệt để tồn tại đến hôm nay là nhờ nền văn hóa Việt Nam đã kết
dính dân tộc Việt Nam thành khối yêu thương đùm bọc, đoàn kết giống nòi giữ nước.
Ngàn năm Bắc thuộc, dù tàn bạo chém giết, dù quyết liệt đồng
hóa nhưng quân Hán, quân Tống, quân Minh, quân Thanh xâm lược không hủy diệt được
văn hóa làng xã tạo nên tâm hồn người Việt, là chất keo gắn kết khối cộng đồng
người Việt, tạo nên sức mạnh trường tồn của dân tộc Việt. Lấy giai cấp thống trị
dân tộc, dùng người Việt mang hồn lạc loài cộng sản đấu tố, bắn giết người Việt
không cộng sản, chỉ mấy chục năm cầm quyền, đảng búa liềm đã đánh phá, li tán
tan tác khối đoàn kết dân tộc Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam là tiếng Việt được người dân sáng tạo, trau
chuốt lên, là câu ca dao “Cô kia tát nước bên đàng / Sao cô múc ánh trăng vàng
đổ đi”, là những tài hoa trong dân gian đã sáng tao ra cả nền nghệ thuật đồ sộ,
phong phú và độc đáo Việt Nam. Văn hóa Việt Nam hội tụ, kết tinh lại đã tạo nên
tầng lớp tinh hoa của đất nước thời nào cũng có.
Tháng chín, năm 1930 mới bảy tháng tuổi, đảng búa liềm Việt
Nam đã tắm máu người Việt trong cuộc bạo loạn Xô Viết Nghệ Tĩnh “đào tận gốc trốc
tận rễ” tầng lớp tinh hoa, Trí, Phú, Địa, Hào ở hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Cải
cách ruộng đất 1953 – 1955 không phải chỉ tắm máu tầng lớp tinh hoa ở làng quê
Bắc Bộ mà còn hủy diệt cả nền văn hóa làng xã ở chiếc nôi của nền văn minh sông
Hồng. Rồi cải tạo tư sản, rồi tù đày trí thức trong vụ Nhân Văn – Giai Phẩm đều
là những đòn chí tử đánh vào tầng lớp tinh hoa của dân tộc Việt Nam. Và đòn
đánh vào khối đoàn kết dân tộc Việt Nam nặng nề, rộng lớn và đẫm máu nhất là
chia đôi đất nước Việt Nam thành hai trận tuyến, chia đôi khối đoàn kết dân tộc
Việt Nam thành hai phe đối kháng thù địch, bắn giết nhau suốt 20 năm trời từ
1955 đến 1975.
Một dân tộc nhỏ bé phải đùm bọc, thương yêu nhau để giữ nước
thì đảng búa liềm lại mang hận thù giai cấp chia đôi dân tộc thành hai chiến
tuyến giết nhau. Đúng vào thời điểm cuộc nội chiến Nam Bắc lên tới đỉnh điểm, một
mất một còn, là thời điểm kẻ thù truyền kiếp, nhà nước phương Bắc xâm lược cất
quân đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của tổ tiên người Việt
Sau cuộc nội chiến Nam Bắc tương tàn hàng triệu người không
chấp nhận hồn lạc loài cộng sản lại bị đảng búa liềm tù đày mỏi mòn không án,
không xét xử, khoét sâu thêm sự hận thù, li tán dân tộc.
Trong xã hội loài người, khác biệt nhận thức, khác biệt trình
độ tiến hóa, khác biệt lí tưởng thẩm mĩ, khác biệt tư tưởng là tất yếu. Nhưng với
nhà nước búa liềm, công an, tòa án, nhà tù là ngôn ngữ đối thoại của nhà nước với
những người dân không chấp nhận hồn lạc loài cộng sản, những người bộc lộ khác
biệt chính kiến với nhà nước cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản đã gây tội ác lớn nhất, khủng khiếp nhất
trong lịch sử loài người, đã bị quốc hội của văn minh châu Âu ra nghị quyết lên
án, đã bị loại bỏ khỏi đời sống chính trị thế giới. Sự thật hiển nhiên như vậy,
chỉ những kẻ nhân cách thấp kém, đầu óc tối tăm mới cố bám víu vào tội ác cộng
sản để mưu lợi riêng. Nhà nước búa liềm Việt Nam hiện nay là nhà nước của những
người như vậy. Yếu kém, bàn bạo, mất lòng dân, nhà nước của một nhóm người đứng
đầu đảng búa liềm đang triệt để chia rẽ li tán tan tác dân tộc Việt Nam để dễ bề
cai trị. Dựa vào sức mạnh của đảng búa liềm Đại Hán để duy trì quyền cai trị
vĩnh viễn, đảng búa liềm Việt Nam đang đưa dân tộc Việt Nam vào tăm tối nô lệ Bắc
thuộc.
5. COI ĐẤT NƯỚC VIẾT NAM NHƯ TÀI SẢN RIÊNG CỦA NHÓM LÃNH ĐẠO,
ĐẢNG BÚA LIỀM CHỈ LÀ LỰC LƯỢNG CHIẾM ĐÓNG LÃNH THỔ VIỆT NAM,
Với ý thức hệ giai cấp, lấy giai cấp thống trị dân tộc, đảng
búa liềm đã thực sự là lực lượng chiếm đóng lãnh thổ Việt Nam, cướp đoạt giang
sơn gấm vóc của dân tộc Việt Nam. Cướp được chính quyền nhà nước trong tay, họ
liên tiếp viết Hiến pháp và hối hả làm luật để hợp pháp hóa việc cướp quyền dân
và biến giang sơn gấm vóc của tổ tiên người Việt thành tài sản riêng của nhóm
người đứng đầu tổ chức đảng. Từ đó tổ chức đảng mặc sức mang đất thiêng của tổ
tiên ra cống nạp, đổi chác cho vương triều búa liềm Đại Hán đàn anh và quan chức
đảng thì tha hồ vơ vét, cướp đoạt đất đai của dân, tài nguyên của nước.
Đất nước phần mất đứt cho nước ngoài, phần còn lại thì bị băm
nát, tan hoang bởi những nhóm lợi ích búa liềm, bởi Formosa, bởi Bausite Tây
Nguyên. Đất nước quặn đau những vết chém như ở đường sắt Cát Linh – Hà Đông, lở
loét những vết thương như ở nhiệt điện Vĩnh Tân, Bình Thuận, như ở nhà máy đạm
Ninh Bình . . . Người dân mất nhà cửa ruộng vườn, mất chốn dung thân, mất nguồn
sinh sống, bơ vơ lưu vong ngay trên quê hương mình từ đời cha sang đời con, từ
thế hệ ông bà sang thế hệ cháu chắt.
Người dân Việt Nam hết thế hệ này đến thế hệ khác đổ mồ hôi
biến bãi hoang, sình lầy thành đồng ruộng màu mỡ, hết thế hệ này đến thế hệ
khác đổ máu giữ gìn dải đất Việt Nam yêu thương. Đó là những người chủ đích thực
của đất nước, của lịch sử Việt Nam. Với chuyên chính vô sản, đảng búa liềm cầm
quyền đã dùng bạo lực sắt máu công an, tòa án, nhà tù cai trị, nô dịch người
dân Việt Nam. Người dân Việt Nam không còn tư cách chủ thể đất nước, không còn
được coi là con người, mà chỉ là kho máu để đảng búa liềm say mê làm cách mạng
và hối hả làm chiến tranh giành và mở rộng quyền cai trị, là kho sức người để đảng
bóc lột và kho công cụ để đảng sử dụng.
Đảng búa liềm từ nhóm năm, bảy người bơ vơ lang bạt lén lút tụ
tập ở bãi cỏ vắng nơi xứ người thành lập đảng năm 1930 đến bốn triệu đảng viên
ngạo nghễ cầm quyền hôm nay đều là người Việt Nam. Nhưng là những người Việt
Nam mang hồn lạc loài cộng sản, mang dòng máu sôi sục hận thù giai cấp. Hồn lạc
loài cộng sản và máu hận thù giai cấp đã làm cho họ trở thành giống người khác
máu tanh lòng với người dân Việt Nam, coi người dân Việt Nam không chấp nhận cộng
sản lạc loài là “thế lực thù địch”, là đối tượng để bạo lực chuyên chính vô sản
đàn áp, tiêu diệt. Tội ác đảng búa liềm lạc loài để lại cho đất nước, cho giống
nòi Việt Nam còn ghê tởm và khủng khiếp hơn tội ác của tất cả mọi loại giặc ngoại
xâm đã từng dày xéo đất nước Việt Nam.
No comments:
Post a Comment